Thông qua Nghị quyết điều chỉnh mức thuế suất thuế tài nguyên
Ảnh minh họa |
Trình bày Tờ trình của Chính phủ về Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 712/2013/UBTVQH13 về việc ban hành Biểu mức thuế suất thuế tài nguyên, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức thuế suất thuế tài nguyên ở các nhóm: khoáng sản kim loại, khoáng sản không kim loại, sản phẩm của rừng tự nhiên, hải sản tự nhiên, yến sào thiên nhiên, dầu thô và khí thiên nhiên, khí than.
Theo tờ trình, việc điều chỉnh mức thuế suất thuế tài nguyên như trên, số thu thuế tài nguyên tăng khoảng 3.177,8 tỷ đồng so với số thu năm 2014. Trong đó, từ ngày 1/1/2016, số thu thuế tài nguyên tăng khoảng 1.592 tỷ đồng, từ ngày 1/1/2017, số thu thuế tài nguyên tăng thêm 1.585,8 tỷ đồng.
Riêng về nhóm gỗ rừng tự nhiên, Chính phủ đề nghị giảm mức thuế suất thuế tài nguyên với Gỗ nhóm I từ 35% xuống 30%; Gỗ nhóm II từ 30% xuống 25%; Gỗ nhóm III, IV từ 20% xuống 18%; Gỗ nhóm V, VI, VII, VIII và các loại gỗ khác từ 15% xuống 12%.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu cho rằng “thuế tác động trực tiếp vào doanh nghiệp nhưng thực ra là tác động đến xã hội, do đó, chắc chắn nếu không tuyên truyền tốt, Nghị quyết này sẽ có nhiều luồng ý kiến khác nhau.
Đồng tình, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân yêu cầu tăng cường tuyên truyền cho người dân, doanh nghiệp hiểu được sự cần thiết của việc điều chỉnh các mức thuế suất. Thời điểm thực hiện Nghị quyết từ ngày 1/7/2016 là thời điểm giữa năm nhằm giúp doanh nghiệp có thời gian sắp xếp hoạt động, không làm xáo trộn hoạt động của doanh nghiệp.
Trao đổi về những nội dung còn nhiều ý kiến khác nhau của Dự thảo Nghị quyết, nhiều ý kiến của Thường vụ Quốc hội thảo luận về việc có nên tăng thuế đối với nhóm gỗ rừng tự nhiên hay không.
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, việc điều chỉnh giảm thuế suất đối với nhóm gỗ rừng tự nhiên là để thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị (về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp), trong phần giải pháp của Nghị quyết có nội dung nghiên cứu giảm thuế suất thuế thuế tài nguyên gỗ khai thác rừng tự nhiên, nên việc giảm là cần thiết.
Chủ tịch Hội đồng Dân Tộc của Quốc hội KSor Phước thì cho rằng, nhóm 1, 2, 3 trong nhóm gỗ rừng tự nhiên chủ yếu nằm trong rừng bảo tồn, rừng đặc dụng, rừng tự nhiên hay rừng phòng hộ, khi khai thác sẽ ảnh hưởng đến cả môi trường xung quanh, chặt cây này phải tàn sát các cây, hệ thực vật khác xung quanh.
Ông KSor Phước cho rằng, phải nghĩ đến nguyên nhân vì sao rừng tự nhiên bị thu hẹp lại, hiện tại, các mức thuế đối với tài nguyên rừng không đáp ứng cho người sống cạnh rừng và cán bộ quản lý rừng đủ sống.
“Trong khi đang thực hiện nghị quyết của Quốc hội để xem nguyên nhân của rừng suy giảm là gì, chưa rõ nguyên nhân vì sao tài nguyên rừng bị giảm, ta không nên thay đổi mức thuế. Quan điểm của tôi là khi chưa rõ ràng thì nên giữ nguyên”, ông KSor Phước nói.
Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính, Ngân sách Phùng Quốc Hiển cũng cho biết, đa số ý kiến trong Ủy ban không nhất trí với Tờ trình của Chính phủ và đề nghị giữ nguyên mức thuế suất như hiện hành vì hiện nay các sản phẩm gỗ nhóm 1, 2... đều là các loại gỗ quý hiếm, chỉ có ở rừng tự nhiên.
“Việc giảm thuế suất đối với sản phẩm gỗ rừng tự nhiên vô tình khuyến khích việc khai thác, chặt phá rừng, tạo hiệu ứng không tốt đến người dân. Đồng thời, với mức giảm thuế tài nguyên theo báo cáo của Chính phủ là không lớn (6,9 tỷ đồng)”, ông Hiển nói.
Kết luận nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho biết đa số ý kiến của Thường vụ Quốc hội đồng tình với sự cần thiết ban hành Nghị quyết điều chỉnh thuế suất thuế Tài nguyên và thống nhất với tờ trình của Chính phủ về mục đích của việc ban hành Nghị quyết.
Thường vụ Quốc hội đồng ý mức tăng đối với nhóm kim loại, không kim loại, nước khoáng. Nhóm 1, 2, 3 của gỗ rừng tự nhiên thì giữ nguyên còn nghiên cứu giảm từ nhóm 4 trở xuống đảm bảo mức sàn và quan trọng là tăng cường tuyên truyền cho người dân hiểu được sự cần thiết của việc điều chỉnh các mức thuế suất.
“Về thời điểm thực hiện, Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016 là vào thời điểm giữa năm nhằm giúp doanh nghiệp có thời gian sắp xếp hoạt động, không làm xáo trộn hoạt động của doanh nghiệp. Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội và Bộ Tài chính hoàn thiện lại nội dung Nghị quyết theo các nội dung cơ bản như trên”, Phó Chủ tịch Nguyễn Thị Kim Ngân kết luận.