Tín dụng ngân hàng: Trụ cột trong hệ thống chính sách giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo là chương trình mục tiêu của bất cứ quốc gia nào. Lại đặt trong bối cảnh Việt Nam xuất phát điểm kinh tế thấp, phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp nông thôn, thiên tai. Tỷ lệ đói nghèo cao, nguy cơ tái nghèo luôn rình rập không chỉ ở những vùng nông thôn gắn với điều kiện địa khí hậu khắc nghiệt như Tây Bắc mà ngay cả những vùng thuận lợi thiên nhiên ưu đã như Đồng bằng sông Cửu Long. Chính sách xóa nghèo dù có tích cực, nhưng nếu không có chính sách ổn định, chống tái nghèo thì xóa đói giảm nghèo không thể bền vững.
Làm thế nào để giải quyết căn cơ bài toán đó là điều mà Đảng và Nhà nước, Chính phủ đặc biệt quan tâm. Và thực tế đã chứng minh giải pháp căn cơ, thiết thực và hiệu quả nhất đó chính là tín dụng mà ngành Ngân hàng đã thực thi thời gian qua.
Ảnh minh họa |
Không để người nghèo bị bỏ lại phía sau
Nhìn lại sau hơn 30 năm đổi mới, ngành Ngân hàng đảm đương vai trò mà sứ mệnh lịch sử đặt lên vai: Vừa là ngân hàng Trung ương vừa là ngân hàng quản lý xây dựng hoạch định chính sách về tín dụng cho người nghèo của Chính phủ. Từ Nghị quyết khoán 10, Việt Nam đã có chính sách cho vay hộ do Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) đảm trách. Để có nguồn vốn rẻ, lãi suất và với cơ chế, chính sách riêng, thuận lợi nhất cho hộ nghèo, tách bạch đối tượng cho vay thương mại và chính sách, NHNN trình Chính phủ thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo trực thuộc Agribank tiền thân cho việc ra đời Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) năm 2003.
Đặc biệt, với sự ra đời của NHCSXH, NHNN đã tham mưu cùng Chính phủ các cơ chế huy động cả hệ thống chính trị từ nhân lực đến vật lực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo. Cùng với đó là việc xây dựng chuỗi các sản phẩm tín dụng để phục vụ người nghèo theo tiến trình phát triển của họ, hỗ trợ người dân không chỉ giảm nghèo mà còn thoát nghèo bền vững tại NHCSXH. Nguồn vốn tín dụng chính sách vì thế trở thành một kênh hỗ trợ vốn trực tiếp giúp trên 4,5 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo.
Đến hết quý III/ 2018, dư nợ các chương trình cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ thoát nghèo của NHCSXH đạt trên 96 nghìn tỷ đồng với trên 3,1 triệu khách hàng. Tính cả các đối tượng thụ hưởng khác, con số khách hàng lên tới gần 7 triệu khách hàng, bao phủ gần 11.000 xã trên toàn quốc. Những con số này đưa NHCSXH Việt Nam vào danh sách một trong những hệ thống phân phối tín dụng vi mô rộng lớn nhất trên thế giới mà Tổng thư ký Hiệp hội Tín dụng Nông nghiệp nông thôn Châu Á - Thái Bình Dương (APRACA) Prasun Kumar Das đã ghi nhận trong chuyến công tác và tham dự hội thảo mới đây tại Việt Nam.
“Tuy nhiên, NHCSXH không phải là công cụ duy nhất trên mặt trận tín dụng giảm nghèo. Trong vai trò NHTW và cơ quan quản lý, NHNN “căng mình” ra xây dựng và vận hành một hệ thống cung ứng tín dụng truyền dẫn vốn hiệu quả đến tận từng thôn bản, làng xã trên khắp mọi miền đất nước”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết.
NHNN đã ban hành nhiều giải pháp khuyến khích các TCTD mở rộng tín dụng thương mại phát triển mạng lưới ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các TCTD có tỷ trọng dư nợ tín dụng nông nghiệp, nông thôn lớn (trên 40%) đã hỗ trợ các TCTD ngày càng vươn mở thị phần về khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Đến nay, mạng lưới tín dụng đã phủ tới mọi thành phần mọi lĩnh vực trong nền kinh tế với 47 ngân hàng, 1.181 quỹ tín dụng nhân dân, 27 tổ chức tín dụng phi ngân hàng, 4 tổ chức tài chính vi mô. Đặc biệt, trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp ngày càng đòi hỏi nguồn vốn lớn trong khi hạn mức cho vay tín dụng chính sách hạn chế, nguồn vốn từ các TCTD, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng trở thành nguồn lực cộng hưởng giúp người nghèo tăng quy mô sản xuất, rút ngắn thời gian thoát nghèo, phát triển bền vững.
“Nguồn vốn của các TCTD đầu tư hạ tầng, dự án sản xuất đã góp phần tạo công ăn việc làm gián tiếp hỗ trợ công cuộc giảm nghèo bền vững”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú nhấn mạnh. |
Đặc biệt, từ năm 2006 đến nay, NHNN đã ban hành nhiều chương trình, chính sách tín dụng hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn, gia cố sức bền cho chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Chương trình tín dụng hỗ trợ phát triển nông nghiệp nông thôn được NHNN xây dựng, trình Chính phủ ban hành và sửa đổi kịp thời với những bước đột phá, ưu đãi phù hợp với xu hướng thị trường. Từ Quyết định 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999, đến nay đã 3 lần sửa đổi với Nghị định 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010, Nghị định 55/2015/NĐ-CP và mới đây nhất là Nghị định 116/2018/NĐ-CP của Chính phủ.
Hệ thống cơ chế, chính sách tín dụng không ngừng được đổi mới, hoàn thiện mạnh mẽ theo hướng mở rộng cả về đối tượng, hạn mức và thủ tục vay vốn, trợ đỡ vào từng nhu cầu của khu vực nông nghiệp nông thôn như: thu mua lương thực tạm trữ; cho vay tái canh cây cà phê; cho vay đánh bắt thủy sản xa bờ; cho vay giảm tổn thất sau thu hoạch. Đối với những rủi ro thiên tai bất khả kháng, NHNN cũng kịp thời ban hành các chính sách tín dụng (cơ cấu lại nợ, miễn giảm lãi vay…) để nguồn vốn tín dụng vừa là lực kéo giúp người dân tái sản xuất, gia tăng ý chí thoát nghèo bền vững.
NHNN cũng trở thành cầu nối với các tổ chức quốc tế, định chế tài chính đưa hàng trăm dự án hỗ trợ giảm nghèo, tạo sinh kế, việc làm, đào tạo vào triển khai trong hệ thống tín dụng, mở rộng nguồn vốn ưu đãi phát triển kinh tế. Ví như tại Agribank, trong 193 dự án nước ngoài của WB, ADB, AFD, EIB…, trong đó có 22 dự án liên quan đến người nghèo và 6 dự án giảm nghèo của IFAD. Hay như SHB, dù là một NHTMCP song cũng dành tới 40% nguồn lực đầu tư nông nghiệp, nông thôn, tạo công ăn việc làm gián tiếp hỗ trợ giảm nghèo. Đồng thời tích cực tham gia ủy thác giải ngân nguồn vốn giảm nghèo từ các định chế tài chính quốc tế.
Với mức tăng bình quân dư nợ tín dụng nông nghiệp, nông thôn vượt bậc gần 20%/năm, tín dụng chính sách tăng bình quân trên 13%/năm, dòng vốn tín dụng ngân hàng đã góp phần quan trọng giúp Việt Nam hoàn thành Mục tiêu thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói vào năm 2002, sớm hơn 13 năm so với mục tiêu đặt ra.
Khi an sinh xã hội trở thành ý thức hệ thống
Như lời hiệu triệu của Thủ tướng Chính phủ “chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau”, từ nhiều năm qua, cùng với các cấp, các ngành hoạt động an sinh xã hội (ASXH) ngành Ngân hàng cũng đã trở thành một kênh huy động nguồn lực xã hội hiệu quả hỗ trợ công cuộc xóa đói giảm nghèo. Qua những lần phát động các chương trình an sinh xã hội, đặc biệt hỗ trợ người nghèo, ngành Ngân hàng luôn là một trong những ngành đi đầu trong công tác an sinh xã hội.
Như năm 2017, ngành Ngân hàng đã hỗ trợ trên 1.348 tỷ đồng, tập trung vào 3 lĩnh vực chính gồm: giáo dục; hỗ trợ hộ nghèo và y tế, trong đó đã xây dựng trên 3.800 ngôi nhà cho người nghèo. Các chương trình tài trợ của Ngành tập trung vào các địa phương còn gặp nhiều khó khăn thuộc khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ với nhiều huyện thuộc Chương trình 30a của Chính phủ về hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững. Ngành cũng kịp thời triển khai hoạt động khắc phục hậu quả thiên tai tại các địa phương thông qua công tác hỗ trợ trực tiếp (nhu yếu phẩm, sách vở, cơ sở vật chất).
9 tháng đầu năm 2018, tập thể cán bộ công nhân viên chức ngành Ngân hàng đã dành trên 941 tỷ đồng để thực hiện các chương trình ASXH trên toàn quốc, trong đó xây dựng 1.570 ngôi nhà cho hộ nghèo và các gia đình chính sách có hoàn cảnh khó khăn.
Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết, những con số này đến từ 2 lý do. Một là công tác ASXH được xác định là một nhiệm vụ toàn Ngành với định hướng và sự chỉ đạo xuyên suốt hệ thống từ NHTW đến các TCTD, từ Trung ương đến địa phương thông qua các tổ chức công đoàn và cả chuyên môn. Tuy nhiên, “ngành Ngân hàng đứng đầu cả về số tiền và số lượng, không phải vì điều kiện kinh tế lợi nhuận khi bản thân các ngân hàng rất khó khăn phải tái cơ cấu, phải dành nguồn lực xử lý nợ xấu tái cơ cấu đặt ra, điều này thể hiện tinh thần trách nhiệm chung tay cùng Chính phủ hỗ trợ xóa đói giảm nghèo”, ông cho biết.
Các hoạt động ASXH của ngành Ngân hàng không chỉ là hỗ trợ cho người dân những khó khăn tức thời mà còn tạo nền tảng phát triển kinh tế xã hội bền vững”. Điều này có thể thấy rõ trong Chương trình hỗ trợ, “đỡ đầu” huyện nghèo trong diện 30a của Chính phủ 10 năm qua. Nhiều NHTM Nhà nước không chỉ nhận đỡ đầu một vài huyện nghèo mà lên tới con số hàng chục như VietinBank, BIDV, Agribank. Có thời điểm số huyện nghèo mà các ngân hàng đăng ký tài trợ theo thống kê của Đảng ủy Khối các doanh nghiệp Trung ương lên tới trên 50 huyện. Ngay cả các NHTMCP còn non trẻ như LienVietPostBank, cũng nhận đỡ đầu huyện 30a là Xí Mần, tỉnh Hà Giang... Ở cấp địa phương, các NHNN chi nhánh tỉnh và chi nhánh các TCTD cũng tham gia hỗ trợ các huyện, xã xóa nghèo, xây dựng nông thôn mới...
Nhìn lại danh sách 8 huyện ra khỏi danh sách huyện nghèo, 38 xã thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn, hoàn thành tiêu chí nông thôn mới (trong đó: 17 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; 21 xã 135); và 30 hộ thoát nghèo vừa được Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu Quốc gia phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội biểu dương tại Hội nghị biểu dương huyện, xã, hộ gia đình thoát nghèo giai đoạn 2016-2020, đâu đâu cũng có dấu ấn ngành Ngân hàng trên cả mặt trận vốn và công tác an sinh xã hội.
Những nỗ lực của ngành Ngân hàng hòa cùng chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ 9,88% năm 2015 xuống còn 8,23% năm 2016, 6,7% năm 2017 và năm 2018 còn khoảng 5,2-5,7%, bình quân giảm khoảng 1,5%/năm, đạt vượt so với mục tiêu đề ra, vượt chỉ tiêu Quốc hội giao; tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vùng dân tộc và miền núi giảm bình quân hơn 3%/năm; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số cũng giảm từ 39,61% cuối năm 2016 xuống còn 35,28% vào cuối năm 2017.
Tuy nhiên, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ chỉ ra công tác giảm nghèo hiện nay còn có những hạn chế, kết quả giảm nghèo chưa thực sự mang tính bền vững, tỷ lệ tái nghèo còn cao; tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc nhiều nơi vẫn còn trên 50%, có nơi còn đến 70%.
Đây cũng là trăn trở của những người xây dựng, thực thi chính sách trong ngành Ngân hàng. Và với tâm huyết “Không để người nghèo bị bỏ lại phía sau. Thời gian tới, hưởng ứng cuộc vận động của Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ngành Ngân hàng sẽ tiếp tục đẩy mạnh các chương trình hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ an sinh xã hội đối với các đối tượng yếu thế, đặc biệt là người nghèo để giúp họ vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú nhấn mạnh.