Viết để tri ân cuộc đời
Nhà văn Nguyễn Tam Mỹ |
Anh là người nghiêm khắc với văn chương, có trách nhiệm với thời cuộc, năng góp nhặt những câu chuyện từ cuộc sống để chuyển tải thành văn chương. Phóng viên có cuộc trao đổi với anh về chuyện văn, chuyện nghề.
Anh vừa làm thơ, viết truyện và tiểu thuyết. Nếu tự đánh giá thì anh phù hợp với tạng nào?
Sinh thời, ba tôi rất mê văn chương, đặc biệt là Truyện Kiều. Sau gần 5 năm phục vụ trong quân ngũ, tôi chuyển ngành về công tác tại Đài Truyền thanh Tiên Phước. Nhà thơ Thanh Quế và một số nhà văn nhà thơ ở Hội Văn học nghệ thuật Quảng Nam - Đà Nẵng lên công tác tại Trà My và ghé thăm tôi.
Nhà thơ Thanh Quế bảo: “Tạng mày, viết văn hợp hơn làm thơ. Nếu mày vẫn đeo đuổi thơ thì giỏi lắm cả đời cũng chỉ viết được vài ba câu tàm tạm mà thôi!”. Nghe theo lời khuyên của nhà thơ Thanh Quế, tôi chuyển sang viết văn. Đó là năm 1989. Sáng tác đầu tay là bút ký “Hoàng hôn quê ngoại”. Tôi gửi cho báo Văn nghệ.
Lúc bấy giờ báo Văn nghệ phối hợp với báo Nông nghiệp Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức cuộc thi viết về đề tài nông nghiệp nông thôn nên đăng ngay. Và sau này được trao giải Ba. Quả là nhà thơ Thanh Quế phát hiện tôi có khả năng viết văn hơn là làm thơ và ông đã chân thành khuyên tôi rẽ sang địa hạt khác.
Dù biết thơ trào phúng hiếm đất dụng võ, tại sao anh vẫn sáng tác, in ấn?
Đúng là thơ trào phúng ít có đất dụng võ nhưng trong cuộc sống hằng ngày thơ trào phúng vẫn hiện diện khắp nơi. Tôi hay lân la các quán cà phê. Và ở đâu tôi cũng nghe thấy người ta đọc thơ trào phúng để làm quà buổi sáng cho nhau. Tôi có khiếu nói ngược, tính hay bông phèng, vì thế tôi làm thơ trào phúng rất nhanh. Thêm nữa, bây giờ có Facebook, tôi lập trang cá nhân đăng lên đó để bạn bè đọc chơi. Rồi bạn bè khuyên tôi in thành tập. Tôi thấy đó là một ý kiến hay nên thực hiện…
Hai tác phẩm mới nhất của nhà văn Nguyễn Tam Mỹ |
Thơ trào phúng của anh đề cập nhiều đến chuyện quan chức cậy quyền, tham nhũng, ô dù, rồi chuyện ma túy, phá rừng, ô nhiễm môi trường… Nhiều người làm thơ ngại “đụng chạm”, còn anh có gì áp lực không?
Tôi làm báo, lại hay viết về đề tài chống tiêu cực, đụng chạm nhiều nên lâu ngày đâm quen. Vì thế, tôi không ngại khi làm thơ trào phúng phê phán thói hư tật xấu của người đời, đả kích quan tham, lên án “lợi ích nhóm”…
Đọc thơ trào phúng của tôi, không ít người “bắn tin” thế này thế nọ, nhưng tôi không sợ, bởi tôi viết đúng theo chủ trương đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Hơn nữa, những vấn đề tôi đề cập trong thơ trào phúng của mình đã được các báo đăng tải một cách công khai…
Còn tiểu thuyết nữa, anh có “Máu và tội ác”, viết về đề tài lịch sử đã đạt đến hai giải thưởng, và mới đây là “Dưới tán rừng thốt nốt”, cũng viết về đề tài chiến tranh. Có phải anh viết theo trào lưu, hay là từ nhu cầu của chính mình?
Trong sáng tác của tôi, nếu chia rành mạch thì có hai đề tài chính, đó là đề tài chiến tranh cách mạng và đời sống xã hội hôm nay. Trước khi viết “Dưới tán rừng thốt nốt”, tôi đã có một số tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cách mạng đã được in thành sách như “Máu và tội ác”, “Nóc Ông Bền, ai quên ai nhớ”, “Tuổi thơ trong chiến tranh” (năm 2017, Nhà xuất bản Kim Đồng tái bản có sửa chữa, bổ sung với tựa đề “Trong và ngoài rào gai”)…
Khi cuộc chiến tranh chống Mỹ bước vào giai đoạn ác liệt nhất, tôi là người chứng kiến sự tàn khốc của chiến tranh thông qua gia đình tôi, xóm làng tôi… Rồi những năm làm báo, có dịp đến vùng sâu vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng, gặp gỡ những người đã đi qua chiến tranh, tôi thấy mình cần phải có trách nhiệm tái hiện lại những năm tháng đau thương ấy.
Viết về chiến tranh, rõ hơn là về đề tài quân tình nguyện trực tiếp tham gia cứu Đất nước chùa tháp thoát khỏi nạn diệt chủng của chế độ Pol Pot. Đây là đề tài cũng có nhiều người động tới. Gần đây nhất có tiểu thuyết “Miền hoang” của Sương Nguyệt Minh. Vậy khi viết “Dưới tán rừng thốt nốt” anh có ngại không vượt qua cái bóng của những người khác?
Khi đọc tiểu thuyết “Miền hoang” của nhà văn Sương Nguyệt Minh, tôi không khỏi ngỡ ngàng ngạc nhiên. Nó khác hẳn với những cuốn sách viết về chiến trường K. mà tôi đã đọc. Có thể do thời gian đã lùi xa nên mới có cái nhìn đa diện như thế? Những e ngại trong tôi được trút bỏ. Và tôi viết “Dưới tán rừng thốt nốt”.
Tôi viết tác phẩm này nhằm góp thêm một cuốn sách viết về chiến trường K. đầy gian khổ hy sinh trong hoàn cảnh cả đất nước lúc bấy giờ phải căng mình ra chống đỡ với hai cuộc chiến tranh vệ quốc ở hai đầu biên giới. Đồng thời, qua tác phẩm của mình, tôi muốn nói lời tri ân với bao đồng đội đã ngã xuống vì bạn vì ta.
Giữa sách hay và sách bán chạy đang có một nghịch lý. Như sách bán chạy chưa chắc đã hay và sách hay chưa chắc bán chạy. Nhưng dù sao cũng phải nói rằng, nhà văn dù viết thế nào cũng mong sách của mình đến được với công chúng. Quan điểm của anh là gì?
Anh nói đúng! Sách bán chạy chưa chắc đã hay, ngược lại, sách hay chưa chắc đã bán chạy. Điều này không chỉ xảy ra với các nhà văn xứ ta mà còn xảy ra với các nhà văn các nước khác trên thế giới. Và đúng như anh nói, nhà văn không nên chạy theo thị hiếu của công chúng nhưng cũng không thể viết ra, in ra để rồi… tác phẩm bị bỏ xó! Người ta bảo, chín người mười ý, không thể làm vừa lòng tất cả.
Vì vậy, mỗi nhà văn có một số lượng độc giả nhất định. Những tác phẩm của tôi được xuất bản cũng có một số lượng độc giả nồng nhiệt đón nhận. Bởi qua tác phẩm của tôi, họ thấy được bóng dáng của họ trong đó. Có một kỷ niệm mà tôi nhớ mãi không quên.
Khi in tập truyện ngắn “Bản nhỏ vùng giáp biên”, có một em học sinh trung học cơ sở ở xóm nghèo bên cầu Kỳ Phú (TP.Tam Kỳ) đến hiệu sách mua đọc. Ba em quát mắng vì ông đội cát thuê mấy ngày mới có được số tiền cho em mua sách học, nào ngờ em lại đi mua sách truyện.
Ông định vứt cuốn sách ấy đi. Tuy nhiên, tiếc của, ông tò mò đọc. Và ông đã khóc vì mắng oan đứa con ham học và ham đọc sách. Chuyện này tôi biết được là nhờ một người bạn ở bên cầu Kỳ Phú kể lại… Và với tôi, dù viết thơ trào phúng, truyện, hay tiểu thuyết, thì tôi đều muốn tri ân cuộc đời và góp tiếng nói để cuộc sống tốt đẹp hơn.
Xin cảm ơn nhà văn Nguyễn Tam Mỹ!