Chỉ số kinh tế:
Ngày 31/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.121 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.918/26.330 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
tet-duong-lich

Ban hành Mẫu tiêu biểu tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông ứng dụng trên máy kiểm đếm, phân loại tiền

Cục PH&KQ
Cục PH&KQ  - 
aa
Tết này lì xì không lo tiền lẻ, tiền mới Quy định mới về quản lý seri tiền mới in của NHNN Đổi tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông hãy đến các ngân hàng
Ban hành Mẫu tiêu biểu tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông (polymer) ứng dụng trên máy kiểm đếm, phân loại tiền

Thời gian qua, các đơn vị trong hệ thống ngân hàng đã tích cực thực hiện thu, đổi, tuyển chọn tiền theo quy định tại Thông tư số 25/2013/TT-NHNN ngày 02/12/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định về thu, đổi tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận - số lượng tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông (KĐTCLT) thu hồi tăng qua các năm, chất lượng đồng tiền trong lưu thông từng bước được làm sạch đẹp.

Nhằm đẩy mạnh và đáp ứng yêu cầu thực tiễn ứng dụng máy móc công nghệ, chuyển đổi số trong hoạt động kho quỹ, triển khai Phong trào “Bình dân học vụ số” theo Quyết định 1938/QĐ-NHNN ngày 28/4/2025, NHNN đã xây dựng và ban hành Mẫu tiêu biểu tiền KĐTCLT (polymer) ứng dụng trên máy kiểm đếm, phân loại tiền (văn bản 11580/NHNN-PHKQ ngày 30/12/2025 về việc ban hành Mẫu tiêu biểu tiền KĐTCLT polymer trên máy kiểm đếm, phân loại tiền).

Thống nhất tiêu chuẩn tuyển chọn cài đặt trên các máy kiểm đếm, phân loại tiền Việt Nam

Các máy kiểm đếm, phân loại tiền có ưu điểm là tính chính xác cao và năng suất lao động gấp nhiều lần so với thủ công. Ngân hàng Trung ương nhiều nước đã triển khai ứng dụng và yêu cầu toàn bộ tiền mặt trước khi đưa ra lưu thông phải được tuyển chọn qua máy.

Tại Việt Nam, các tổ chức tín dụng (TCTD) đã quan tâm, trang bị máy phân loại, tuyển chọn tiền, đảm bảo chất lượng tiền trong lưu thông. Việc ban hành Mẫu tiêu biểu tiền KĐTCLT (polymer) ứng dụng trên máy kiểm đếm, phân loại tiền nhằm mục tiêu thống nhất tiêu chuẩn, chất lượng tiền tuyển chọn bằng máy trong hệ thống ngân hàng.

Mẫu tiêu biểu tiền KĐTCLT (polymer) ứng dụng trên máy kiểm đếm, phân loại tiền đưa ra các tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể để phân loại tiền KĐTCLT

Mẫu tiêu biểu tiền KĐTCLT (polymer) ứng dụng trên máy kiểm đếm, phân loại tiền cung cấp các tiêu chí, tiêu chuẩn (định lượng, định tính) để thống nhất phân loại tờ tiền trong lưu thông đối với 6 mệnh giá tiền polymer (10.000đ, 20.000đ, 50.000đ, 100.000đ, 200.000đ và 500.000đ) theo quy định tại Thông tư 25/2013/TT-NHNN (Điều 4).

Hai nhóm tiêu chí phân loại tiền cụ thể:

(1) Tiêu chí về cấu trúc đồng tiền (như tiền bị thủng lỗ, rách mất một phần, tiền được can dán…) được định lượng và đưa ra tiêu chuẩn tối thiểu có thể đo lường.

(2) Tiêu chí về chất lượng đồng tiền (viết, vẽ, tẩy xóa…) được thể hiện bằng hình ảnh tiêu biểu. Đặc biệt, Mẫu tiêu biểu tiền KĐTCLT (polymer) ứng dụng trên máy kiểm đếm, phân loại tiền cung cấp hình ảnh tiêu biểu đối với tiêu chí mòn mực in (là lỗi phổ biến nhất trên đồng tiền polymer) theo từng cấp độ, tạo thuận lợi cho kiểm ngân đối chiếu khi phân loại tiền.

Tiếp tục niêm yết áp phích Mẫu tiền KĐTCLT tại nơi giao dịch

Căn cứ quy định tại Thông tư 25/2013/TT-NHNN, NHNN đã ban hành Mẫu tiền KĐTCLT bằng hình thức áp phích (bao gồm hình ảnh một số đồng tiền KĐTCLT tiêu biểu) và yêu cầu Sở Giao dịch, NHNN Khu vực, TCTD niêm yết tại nơi giao dịch. Theo đó, các đơn vị tiếp tục niêm yết áp phích Mẫu tiền KĐTCLT để tuyên truyền đến người dân về chủ trương thu, đổi tiền KĐTCLT, làm sạch đẹp đồng tiền trong lưu thông.

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số, nâng cao chất lượng đồng tiền trong lưu thông

Việc ban hành Mẫu tiêu biểu tiền KĐTCLT (polymer) ứng dụng trên máy kiểm đếm, phân loại tiền thống nhất tiêu chuẩn tuyển chọn tiền trong hệ thống ngân hàng, đẩy mạnh ứng dụng máy móc, công nghệ hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả, năng suất, chất lượng tuyển chọn tiền, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số của ngành ngân hàng trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc. Đồng thời, Mẫu tiêu biểu tiền KĐTCLT cung cấp thông tin tuyên truyền số hiện đại, tích cực thực hiện “bình dân học vụ số” trong lĩnh vực tiền tệ, giúp tổ chức, người dân có thông tin nhận biết, nộp, đổi tiền KĐTCLT, góp phần làm sạch đẹp đồng tiền trong lưu thông, nâng cao hình ảnh, uy tín đồng tiền Việt Nam.

Cục PH&KQ

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1947 - 1954: Phát hành kỳ 2

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1947 - 1954: Phát hành kỳ 2

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1947 - 1954: Phát hành kỳ 1

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1947 - 1954: Phát hành kỳ 1

Theo thỏa thuận của Hội nghị Yalta gồm ba nước là Mỹ, Anh và Liên Xô, ngày 13/9/1945, quân đồng minh Anh tiến vào tiếp quản Sài Gòn. Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp tiếp tục được vũ trang, giải giáp quân Nhật và sau đó mở rộng đánh chiếm lại Nam Kỳ, khôi phục lại chế độ thực dân cai trị tại miền Nam Việt Nam. Ngân hàng Đông Dương cũng khôi phục lại việc phát hành tiền và lưu thông trong vùng chiếm đóng.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1947 - 1954: Phát hành kỳ 1

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1947 - 1954: Phát hành kỳ 1

Theo thỏa thuận của Hội nghị Yalta gồm ba nước là Mỹ, Anh và Liên Xô, ngày 13/9/1945, quân đồng minh Anh tiến vào tiếp quản Sài Gòn. Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp tiếp tục được vũ trang, giải giáp quân Nhật và sau đó mở rộng đánh chiếm lại Nam Kỳ, khôi phục lại chế độ thực dân cai trị tại miền Nam Việt Nam. Ngân hàng Đông Dương cũng khôi phục lại việc phát hành tiền và lưu thông trong vùng chiếm đóng.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1942 - 1951

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1942 - 1951

Tháng 7 năm 1941, Hiệp ước Pháp - Nhật ký kết mở cửa cho quân đội Phát xít Nhật tràn vào Đông Dương. Dưới sự kiểm soát của quân Nhật, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương Decoux tiếp tục cho in và phát hành tiền, chủ yếu phục vụ bộ máy cai trị tại chỗ của quân Phát xít Nhật, gồm các mệnh giá sau: 1 piastre (giấy một đồng vàng), 5 piastres (giấy năm đồng vàng), 20 piastres (giấy hai chục đồng vàng), 100 piastres (Một trăm đồng vàng), 500 piastres (giấy năm trăm đồng vàng). Lúc này giao thông trên thế giới bị ngăn trở do Chiến tranh thế giới thứ hai, nên các loại giấy bạc thời kỳ này được họa sỹ Việt Nam thiết kế (Trần Tấn Lộc và Phạm Ngọc Khuê) và tiếp tục in ở Nhà in Viễn Đông (IDÉO) tại Hà Nội. Chất lượng giấy in tiền cũng là loại giấy nội hóa.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 3 (1942 - 1944)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 3 (1942 - 1944)

Ngân hàng Đông Dương tiếp tục phát hành ba mẫu cũ, nhưng có thay đổi chữ ký của Tổng thủ quỹ và Giám đốc tài chính. Tiền kỳ này có chữ ký Le Trésorier General: Louis MAYER góc dưới bên trái tờ tiền và Le Derecteur des Finances: Jean COUSIN góc dưới bên phải tờ tiền. Bên cạnh đó, Ngân hàng Đông Dương còn phát hành thêm 4 loại tiền mới gồm: Tờ 5 cents (năm xu), tờ 10 cents (một hào), tờ 20 cents (hai hào) và tờ 50 cents (năm hào).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 2 (1942)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 2 (1942)

Ngân hàng Đông Dương phát hành thêm tiền 10, 20 và 50 cents, hình thức và màu sắc giống kỳ 1 (1940) nhưng thay chữ ký Louis Mayer và Yves Cazaux. Các tờ đều màu nâu đỏ, hình chữ nhật, phát hành toàn Đông Dương.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 1 (1940)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 1 (1940)

Từ năm 1940, chính phủ Vichy (Pháp) do Thống chế Philippe Pétain đứng đầu cho phép Ngân hàng Đông Dương phát hành những loại tiền hào mệnh giá nhỏ (1 hào=10 xu).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Trong kỳ phát hành này, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in các mệnh giá của kỳ 3 nhưng thay đổi chữ ký, đồng thời bổ sung hai mệnh giá mới là 20 piastres và 500 piastres. Các tờ tiền 1, 5 và 100 piastres có hình thức, màu sắc và bố cục tương tự các kỳ trước, chỉ khác chữ ký. Riêng tờ 20 piastres và 500 piastres có thiết kế nổi bật với khung nền “BANQUE DE L’INDOCHINE”, hình Marianne, Angkor Wat, quả địa cầu và voi, phát hành lưu hành trên toàn Đông Dương.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Từ năm 1923 đến năm 1939, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành bốn kỳ với 8 loại mệnh giá là 1 piastre (có 2 loại), 5 piastres (có 2 loại), 20 piastres (có 2 loại), 100 piastres (1 loại) và 500 piastres (1 loại). Trong các kỳ phát hành này, tên ngân hàng phát hành là: “Banque de L’Indo-chine” (bỏ gạch nối ở giữa thành “L’Indochine”). Mặt sau có ba thứ chữ là Hán, Việt, Miên (Campuchia).