Chỉ số kinh tế:
Ngày 26/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.128 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.922/26.334 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1942 - 1951

LâmTV
LâmTV  - 
Tháng 7 năm 1941, Hiệp ước Pháp - Nhật ký kết mở cửa cho quân đội Phát xít Nhật tràn vào Đông Dương. Dưới sự kiểm soát của quân Nhật, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương Decoux tiếp tục cho in và phát hành tiền, chủ yếu phục vụ bộ máy cai trị tại chỗ của quân Phát xít Nhật, gồm các mệnh giá sau: 1 piastre (giấy một đồng vàng), 5 piastres (giấy năm đồng vàng), 20 piastres (giấy hai chục đồng vàng), 100 piastres (Một trăm đồng vàng), 500 piastres (giấy năm trăm đồng vàng). Lúc này giao thông trên thế giới bị ngăn trở do Chiến tranh thế giới thứ hai, nên các loại giấy bạc thời kỳ này được họa sỹ Việt Nam thiết kế (Trần Tấn Lộc và Phạm Ngọc Khuê) và tiếp tục in ở Nhà in Viễn Đông (IDÉO) tại Hà Nội. Chất lượng giấy in tiền cũng là loại giấy nội hóa.
aa
Ảnh 2.3.64. Tiền giấy 1 piastre, 1942-1945 (Màu xanh dương – đen)
Tiền giấy 1 piastre, 1942-1945 (Màu xanh dương – đen)
Ảnh 2.3.65. Tiền giấy 1 piastre, 1942 -1945 (Màu tím - đen)
Tiền giấy 1 piastre, 1942 -1945 (Màu tím - đen)
Ảnh 2.3.66. Tờ tiền piastres, 1942 -1945 (Màu cam - đen)
Tờ tiền piastres, 1942 -1945 (Màu cam - đen)

Tiền giấy 1 piastre (Giấy một đồng vàng): Hình chữ nhật, kích thước 126 x 62 mm, phát hành cho giai đoạn từ năm 1942 đến năm 1945, gồm 3 loại (phân biệt theo màu sắc: cam - đen, xanh dương - đen và tím- đen). Mặt trước in phong cảnh biển, thuyền buồm tại Hòn Gai, Quảng Ninh. Mặt sau có hình ảnh Đức Phật, mệnh giá tiền bằng chữ Việt Nam, chữ Campuchia, chữ Lào và chữ Hán, phát hành toàn Đông Dương.

Ảnh 2.3.67. Tiền giấy 5 piastres, 1942 -1945 (Màu hồng - nâu)
Tiền giấy 5 piastres, 1942 -1945 (Màu hồng - nâu)
Ảnh 2.3.68. Tiền giấy 5 piastres, 1942-1945 (Màu xanh - nâu)
Tiền giấy 5 piastres, 1942-1945 (Màu xanh - nâu)
Ảnh 2.3.69. Tiền giấy 5 piastres, 1942 -1945 (Màu xanh - nâu, seri nhỏ)
Tiền giấy 5 piastres, 1942 -1945 (Màu xanh - nâu, seri nhỏ)
Ảnh 2.3.70. Tiền giấy 5 piastres, 1942 -1945 (Màu xanh - nâu, seri to)
Tiền giấy 5 piastres, 1942 -1945 (Màu xanh - nâu, seri to)

Tiền giấy 5 piastres (Giấy năm đồng vàng): Hình chữ nhật, kích thước 128 x 73 mm, gồm 3 loại: hồng - nâu, xanh - nâu, xanh - đen, phát hành trong giai đoạn từ năm 1942 đến năm 1945 trên toàn Đông Dương. Mặt trước in số 5 trong vòng hoa. Mặt sau in hình ảnh Thủy đình Đền Đô (tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh, Việt Nam).

Ảnh 2.3.71. Tiền giấy 20 piastres, 1942 -1945 (Màu hồng – đen)
Tiền giấy 20 piastres, 1942 -1945 (Màu hồng – đen)
Ảnh 2.3.72. Tiền giấy 20 piastres, 1942 -1945 (Màu nâu nhạt - đen)
Tiền giấy 20 piastres, 1942 -1945 (Màu nâu nhạt - đen)
Ảnh 2.3.73. Tiền giấy 20 piastres, 1942 -1945 (Màu xanh đậm)
Tiền giấy 20 piastres, 1942 -1945 (Màu xanh đậm)
Ảnh 2.3.74. Tiền giấy 20 piastres, 1942 -1945 (Màu vàng – xanh lá)
Tiền giấy 20 piastres, 1942 -1945 (Màu vàng – xanh lá)

Tiền giấy 20 piastres (Giấy hai chục đồng vàng): Hình chữ nhật, kích thước 156 x 75 mm, gồm 4 loại: xanh da trời - xanh đậm, nâu nhạt - đen, vàng - xanh lá cây đậm, hồng - đen, phát hành từ năm 1942 đến năm 1945 trên toàn Đông Dương. Mặt trước in hình cột cờ/Kỳ đài và cửa chính Nam kinh thành Huế. Mặt sau in hình tượng Vua Jayavarman VII ở đền Angkor Thom.

Ảnh 2.3.75. Tiền giấy 100 piastres 1942 -1945 (Màu cam - đỏ nâu)
Tiền giấy 100 piastres 1942 -1945 (Màu cam - đỏ nâu)
Ảnh 2.3.76. Tiền giấy 100 piastres, 1942 -1945 (Màu xanh lá cây - tím)
Tiền giấy 100 piastres, 1942 -1945 (Màu xanh lá cây - tím)
Ảnh 2.3.77. Tiền giấy 100 piastres, 1942 -1945 (Màu đỏ - xanh xám)
Tiền giấy 100 piastres, 1942 -1945 (Màu đỏ - xanh xám)

Tiền giấy 100 piastres (Một trăm đồng vàng): Hình chữ nhật, kích thước 175 x 87 mm, có 3 màu: cam-đỏ nâu, xanh lá cây-tím, đỏ- xanh xám, phát hành từ năm 1942 đến năm 1945 trên toàn Đông Dương. Mặt trước in hình ảnh chợ làng quê Lào và Việt. Mặt sau in hình ảnh Đền Trung Liệt tại vườn Bách thảo Sài Gòn.

Ảnh 2.3.78. Tiền giấy 500 piastres, 1942 -1945 (Màu đỏ - vàng - xanh lục)
Tiền giấy 500 piastres, 1942 -1945 (Màu đỏ - vàng - xanh lục)
Ảnh 2.3.79. Tiền giấy 100 piastres, 1942 -1945 (Màu xanh đen - đỏ)
Tiền giấy 100 piastres, 1942 -1945 (Màu xanh đen - đỏ)

Tiền giấy 500 piastres (Giấy năm trăm đồng vàng): Hình chữ nhật, kích thước 180 x 79 mm, có 2 màu: đỏ vàng - xanh đậm, xanh đen - đen, phát hành từ năm 1942 đến năm 1945 trên toàn Đông Dương. Mặt trước in hình ảnh 6 người nông dân đang tát nước bằng gầu giai bên hiên đình Bắc bộ. Mặt sau in hình ảnh rồng ẩn hiện trong mây, mệnh giá tiền bằng chữ Việt Nam, chữ Campuchia, chữ Lào và chữ Hán.

Năm 1944, Nhật cần tiền cho cuộc chiến tranh xâm lược Đông Nam Á nên cho in 2 loại 1 piastre và 5 piastres tại Nhật. Có tài liệu cho rằng, do in tại Nhật nên chính phủ Pháp tại Đông Dương và Ngân hàng Đông Dương e ngại có sự lũng đoạn trên thị trường tiền tệ, nên khi tàu Nhật chở tiền sang bị phi cơ quân Đồng minh đánh đắm. Loại giấy bạc 1 piastre có lẽ không bị đắm nên còn nguyên, trong khi đó loại tiền 5 piastres được ghi nhận đã bị tiêu hủy gần hết. Ngân hàng Đông Dương tồn trữ số còn lại, đến năm 1950 – 1951 mới được đem ra phát hành. Loại 5 piastres được đóng thêm chữ ký thủ quỹ Ngân hàng phát hành rất ít thấy.

Ảnh 2.3.80. Tiền giấy 1 piastre, 1950 -1951
Tiền giấy 1 piastre, 1950 -1951

Tiền giấy 1 piastre (Giấy một đồng vàng): Hình chữ nhật, kích thước 126 x 64 mm, in tại Nhật và in nhiều màu sắc. Mặt trước in hình ảnh chân dung phụ nữ đội nón và nông dân cày ruộng. Mặt sau in hình ảnh hai phụ nữ Lào và Campuchia.

Ảnh 2.3.81. Tiền giấy 5 piastres, 1950 -1951
Tiền giấy 5 piastres, 1950 -1951

Tiền giấy 5 piastres (Giấy Năm đồng vàng): Hình chữ nhật, kích thước 134 x 75 mm, in tại Nhật và nhiều màu sắc. Mặt trước in hình ảnh người nông dân Bắc Bộ đang cấy lúa. Mặt sau in hình ảnh nhà sư và chùa tháp Lào.

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939 Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936) Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)
LâmTV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 3 (1942 - 1944)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 3 (1942 - 1944)

Ngân hàng Đông Dương tiếp tục phát hành ba mẫu cũ, nhưng có thay đổi chữ ký của Tổng thủ quỹ và Giám đốc tài chính. Tiền kỳ này có chữ ký Le Trésorier General: Louis MAYER góc dưới bên trái tờ tiền và Le Derecteur des Finances: Jean COUSIN góc dưới bên phải tờ tiền. Bên cạnh đó, Ngân hàng Đông Dương còn phát hành thêm 4 loại tiền mới gồm: Tờ 5 cents (năm xu), tờ 10 cents (một hào), tờ 20 cents (hai hào) và tờ 50 cents (năm hào).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 2 (1942)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 2 (1942)

Ngân hàng Đông Dương phát hành thêm tiền 10, 20 và 50 cents, hình thức và màu sắc giống kỳ 1 (1940) nhưng thay chữ ký Louis Mayer và Yves Cazaux. Các tờ đều màu nâu đỏ, hình chữ nhật, phát hành toàn Đông Dương.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 1 (1940)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 1 (1940)

Từ năm 1940, chính phủ Vichy (Pháp) do Thống chế Philippe Pétain đứng đầu cho phép Ngân hàng Đông Dương phát hành những loại tiền hào mệnh giá nhỏ (1 hào=10 xu).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Trong kỳ phát hành này, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in các mệnh giá của kỳ 3 nhưng thay đổi chữ ký, đồng thời bổ sung hai mệnh giá mới là 20 piastres và 500 piastres. Các tờ tiền 1, 5 và 100 piastres có hình thức, màu sắc và bố cục tương tự các kỳ trước, chỉ khác chữ ký. Riêng tờ 20 piastres và 500 piastres có thiết kế nổi bật với khung nền “BANQUE DE L’INDOCHINE”, hình Marianne, Angkor Wat, quả địa cầu và voi, phát hành lưu hành trên toàn Đông Dương.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Từ năm 1923 đến năm 1939, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành bốn kỳ với 8 loại mệnh giá là 1 piastre (có 2 loại), 5 piastres (có 2 loại), 20 piastres (có 2 loại), 100 piastres (1 loại) và 500 piastres (1 loại). Trong các kỳ phát hành này, tên ngân hàng phát hành là: “Banque de L’Indo-chine” (bỏ gạch nối ở giữa thành “L’Indochine”). Mặt sau có ba thứ chữ là Hán, Việt, Miên (Campuchia).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Nghị định 06/10/1919, phát hành tiền giấy mệnh giá nhỏ gồm 10 cents xanh, 20 cents nâu và 50 cents đỏ. Tờ 20 cents có hai loại: có và không ghi tên nhà in Chaix.Paris. Chúng được phát hành cùng thời điểm tiền xu bạc bị giảm hàm lượng từ 83,5% xuống 40%. Đến năm 1921, Sắc lệnh 02/3/1921 yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ các loại tiền này. Giai đoạn 1922–1924, khoảng 94% đã được thu hồi, chỉ còn 6% lưu thông. Tổng phát hành gồm 1 triệu tờ 10 cents, 6 triệu tờ 20 cents và 3,7 triệu tờ 50 cents.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Từ năm 1909 đến 1925, Ngân hàng Đông Dương phát hành tại Sài Gòn và Hải Phòng các loại giấy bạc Đông Dương mệnh giá 5, 20 và 100 piastres trong bốn đợt. Đợt năm 1909 có hai mệnh giá 5 và 20 piastres, mang đậm nét văn hóa “mẫu quốc” Pháp, tiêu biểu là hình Marianne – biểu tượng nước Pháp – ngồi uy nghi trên tờ 20 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền