Chỉ số kinh tế:
Ngày 24/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.146 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.939/26.353 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 3 (1942 - 1944)

Lâm.TV
Lâm.TV  - 
Ngân hàng Đông Dương tiếp tục phát hành ba mẫu cũ, nhưng có thay đổi chữ ký của Tổng thủ quỹ và Giám đốc tài chính. Tiền kỳ này có chữ ký Le Trésorier General: Louis MAYER góc dưới bên trái tờ tiền và Le Derecteur des Finances: Jean COUSIN góc dưới bên phải tờ tiền. Bên cạnh đó, Ngân hàng Đông Dương còn phát hành thêm 4 loại tiền mới gồm: Tờ 5 cents (năm xu), tờ 10 cents (một hào), tờ 20 cents (hai hào) và tờ 50 cents (năm hào).
aa
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 1 (1940) Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 2 (1942)
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 3 (1942 - 1944)
Ảnh 2.3.57. Tiền giấy 10 cents, 1942 -1944

Tiền giấy 10 Cents (Mười xu): Hình chữ nhật, kích thước 106 x 54 mm, màu nâu, phát hành toàn Đông Dương. Mô tả kích thước, màu sắc và chi tiết giống với tờ 10 Cents phát hành kỳ 1 (1940) nêu trên. Các tờ tiền 10 Cents thời kỳ này có màu sắc khá phong phú từ nâu đỏ đến nâu sẫm.

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 3 (1942 - 1944)
Tiền giấy 20 cents, 1942 -1944

Tiền giấy 20 Cents (Hai mươi xu): Hình chữ nhật, kích thước 105 x 65 mm, màu xanh lá cây và nâu, phát hành toàn Đông Dương. Mô tả kích thước, màu sắc và chi tiết giống với tờ 20 Cents phát hành kỳ 1 (1940) nêu trên.

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 3 (1942 - 1944)
Tiền giấy 50 cents, 1942 -1944

Tiền giấy 50 Cents (Năm mươi xu): Hình chữ nhật, kích thước 105 x 70 mm, màu nâu đỏ, tím, phát hành toàn Đông Dương. Kích thước, màu sắc và chi tiết giống với tờ 50 Cents phát hành kỳ 1 (1940) nêu trên. Các tờ tiền 50 Cents kỳ này có màu sắc khá phong phú, từ nâu đỏ đến nâu sẫm, thậm chí có tờ màu nâu cafe và đen.

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 3 (1942 - 1944)
Tiền giấy 5 cents, 1942 -1944

Tiền giấy 5 cents (Năm xu): Hình chữ nhật, kích thước 77 x 50 mm. Màu xanh lá cây nhạt và đậm, chữ số màu đen. Mặt trước in mệnh giá “5 cents” giữa hoa văn. Mặt sau in hoa văn, phát hành toàn Đông Dương. Có 2 loại chữ ký tên màu xanh và màu đen.

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 3 (1942 - 1944)
Tiền giấy 10 cents, 1942 -1944

Tiền giấy 10 cents (Một hào): Hình chữ nhật, kích thước 77 x 50 mm, màu vàng đất và xám đen. Mặt trước in mệnh giá “10 cents” giữa hai con phượng. Mặt sau in hình hai nhành lúa, phát hành toàn Đông Dương và mệnh giá bằng chữ Việt Nam, chữ Campuchia, chữ Lào và chữ Hán.

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 3 (1942 - 1944)
Tiền giấy 20 cents, 1942 -1944

Tiền giấy 20 cents (Hai hào): Hình chữ nhật, kích thước 87 x 57 mm. màu tím và hồng, phát hành toàn Đông Dương. Mặt trước in mệnh giá “20 cents” giữa hai con rồng chầu hai bên. Mặt sau in hoa văn bông lúa và mệnh giá bằng chữ Việt Nam, chữ Campuchia, chữ Lào và chữ Hán.

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 3 (1942 - 1944)
Tiền giấy 50 cents, 1942 -1944

Tiền giấy 50 cents (Năm hào): Hình chữ nhật, kích thước 96 x 53 mm, màu xanh lá cây nhạt và đậm, phát hành toàn Đông Dương. Mặt trước in mệnh giá “50 cents” giữa hoa văn cách điệu hình 3 con dơi. Mặt sau in hoa văn rồng trên bông lúa và mệnh giá bằng chữ Việt Nam, chữ Campuchia, chữ Lào và chữ Hán.

Sau 23/9/1945, khi tiếp quản Ngân hàng Đông Dương thì trong kho chỉ còn khoảng 1 triệu đồng bạc mà đa số đều là hào lẻ. Đứng trước sự khó khăn, khan hiếm tiền trong lưu thông, Chính phủ cho tìm những công nhân chuyên in giấy bạc trước đây của Nhà máy In Viễn Đông (IDÉO) và yêu cầu họ tiếp tục in thêm các loại bạc này vì bản kẽm in vẫn còn trong nhà in. Loại giấy bạc in sau này do giấy mực khan hiếm nên phải sử dụng giấy nội, xấu và in các loại 10 cents, 20 cents, 50 cents của đợt 3, kỳ 1 (1940) và loại 5 cents (5 xu), 10 cents (1 hào) 20 cents (2 hào) và 50 cents (5 hào) của đợt 3, kỳ 3 (1942-1944)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 1 (1940) Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 1 (1940)

Từ năm 1940, chính phủ Vichy (Pháp) do Thống chế Philippe Pétain đứng đầu cho phép Ngân hàng Đông Dương phát hành những loại tiền ...

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 2 (1942) Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 2 (1942)

Ngân hàng Đông Dương phát hành thêm tiền 10, 20 và 50 cents, hình thức và màu sắc giống kỳ 1 (1940) nhưng thay chữ ...

Lâm.TV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 2 (1942)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 2 (1942)

Ngân hàng Đông Dương phát hành thêm tiền 10, 20 và 50 cents, hình thức và màu sắc giống kỳ 1 (1940) nhưng thay chữ ký Louis Mayer và Yves Cazaux. Các tờ đều màu nâu đỏ, hình chữ nhật, phát hành toàn Đông Dương.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 1 (1940)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 1 (1940)

Từ năm 1940, chính phủ Vichy (Pháp) do Thống chế Philippe Pétain đứng đầu cho phép Ngân hàng Đông Dương phát hành những loại tiền hào mệnh giá nhỏ (1 hào=10 xu).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Trong kỳ phát hành này, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in các mệnh giá của kỳ 3 nhưng thay đổi chữ ký, đồng thời bổ sung hai mệnh giá mới là 20 piastres và 500 piastres. Các tờ tiền 1, 5 và 100 piastres có hình thức, màu sắc và bố cục tương tự các kỳ trước, chỉ khác chữ ký. Riêng tờ 20 piastres và 500 piastres có thiết kế nổi bật với khung nền “BANQUE DE L’INDOCHINE”, hình Marianne, Angkor Wat, quả địa cầu và voi, phát hành lưu hành trên toàn Đông Dương.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Từ năm 1923 đến năm 1939, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành bốn kỳ với 8 loại mệnh giá là 1 piastre (có 2 loại), 5 piastres (có 2 loại), 20 piastres (có 2 loại), 100 piastres (1 loại) và 500 piastres (1 loại). Trong các kỳ phát hành này, tên ngân hàng phát hành là: “Banque de L’Indo-chine” (bỏ gạch nối ở giữa thành “L’Indochine”). Mặt sau có ba thứ chữ là Hán, Việt, Miên (Campuchia).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Nghị định 06/10/1919, phát hành tiền giấy mệnh giá nhỏ gồm 10 cents xanh, 20 cents nâu và 50 cents đỏ. Tờ 20 cents có hai loại: có và không ghi tên nhà in Chaix.Paris. Chúng được phát hành cùng thời điểm tiền xu bạc bị giảm hàm lượng từ 83,5% xuống 40%. Đến năm 1921, Sắc lệnh 02/3/1921 yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ các loại tiền này. Giai đoạn 1922–1924, khoảng 94% đã được thu hồi, chỉ còn 6% lưu thông. Tổng phát hành gồm 1 triệu tờ 10 cents, 6 triệu tờ 20 cents và 3,7 triệu tờ 50 cents.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Từ năm 1909 đến 1925, Ngân hàng Đông Dương phát hành tại Sài Gòn và Hải Phòng các loại giấy bạc Đông Dương mệnh giá 5, 20 và 100 piastres trong bốn đợt. Đợt năm 1909 có hai mệnh giá 5 và 20 piastres, mang đậm nét văn hóa “mẫu quốc” Pháp, tiêu biểu là hình Marianne – biểu tượng nước Pháp – ngồi uy nghi trên tờ 20 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau: