Bên chén trà ngày xuân
Cũng nhờ cơ duyên ấy mà rất nhiều lần tôi được nghe cố nghệ nhân trà Trường Xuân chỉ cho cách thưởng thức một chén trà như thế nào cho đúng, thế nào là ngon… Để có một ấm trà ngon cũng phải “có đầu có đuôi” chứ không chỉ đơn thuần cho trà vào ấm rồi rót nước sôi vào là xong.
Nghệ nhân trà Trường Xuân còn là một nhiếp ảnh gia với một tâm hồn nghệ sĩ “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý”, nên lũ hậu thế chúng tôi rất thích la cà ở Hiên trà mỗi khi có thể, để được trò chuyện với ông cụ. Lâu dần, thân quá thành cứ quen miệng gọi ông cụ bằng bố.
Hoàng Anh Sướng (giữa) con trai nghệ nhân trà Trường Xuân đang chuẩn bị các công đoạn ướp trà sen |
Nhớ một lần, cách đây có dễ cả chục năm, ngồi trò chuyện với ông cụ bên bàn trà, thấy tôi cầm chén trà tợp đánh ực một cách thản nhiên, ông cụ tế nhị nói. Ngày trước, bố mà cầm chén trà làm cái ực như thế là ông nội quất vào tay và không cho uống nữa.
Cụ bảo, uống thế người biết uống trà người ta gọi là ngưu ẩm (uống như trâu uống nước). Tôi còn đang ngớ ra không hiểu thì ông cụ dạy. Khi được mời trà, tay đỡ lấy chén trà, rồi nhẹ nhàng nâng lên trước mũi, đưa qua đưa lại để hương trà nhẹ nhàng đánh thức thần kinh khứu giác. Như thế thì mới biết là trà thơm hay không, thơm tới độ nào. Sành trà hơn sẽ biết đó là loại trà gì như trà Tân Cương, hay trà hương thì đó là loại trà hương sen hay nhài hay ngâu…
Mặt khác, uống như thế còn là cách cảm ơn người mời trà. Các cụ xưa cầu kỳ còn phải lấy tay nọ đỡ lấy tay cầm chén trà, như là cách trân trọng chén trà. Bởi lẽ có được chén trà là công lao của bao người từ khi trồng cây chè cho đến khi sấy để ra được búp chè ngon… Khứu giác được đánh thức mới kích thích vị giác, khi uống mới thấy được vị của trà.
“Bố ơi, thế gọi chè là đúng hay trà thì đúng” - Tôi hỏi lấp liếm cái “tội ngưu ẩm” của mình. “Chữ chè là người Việt gọi để chỉ cây trồng và sản phẩm chế biến của cây chè như chè tươi, chè vối, còn chữ trà là âm Hán - Việt để chỉ những sản phẩm (đã chế biến) làm từ cây chè như trà móc câu, trà mạn hảo, trà sen, trà nhài…”, ông cụ dạy tôi thế.
“Người xưa đã tổng kết: nhất Thủy, nhị Trà, tam Bôi, tứ Bình, ngũ Quần anh. Có nghĩa là tiêu chí đầu bảng để có ấm trà ngon là nước dùng để pha trà. Con có biết các cụ thường hay lấy nước ở đâu để pha trà cho ngon không?”, ông cụ chợt hỏi. “Con thấy các cụ hay lấy nước mưa, nước giếng đá ong pha trà là ngon nhất, còn chuyện lấy nước sương đọng trên lá sen thì chắc chỉ có vua chúa mới cầu kỳ thế” - Tôi láu táu trả lời.
Ông cụ không nói ngay mà cười tủm tỉm. Cái nụ cười mỉm lộ nguyên bên má lúm đồng tiền duyên dáng thế kia, chắc ngày xưa bố cũng là tay… sát gái (tôi thầm nghĩ bậy trong đầu). “Sơn Thủy thượng, Tĩnh Thủy hạ, Giang Thủy trung, tức là nếu lấy nước suối thì lấy nước đầu nguồn, nước giếng phải là nước dưới đáy và nếu lấy ở sông thì lấy nước giữa dòng.
Vì sao vậy, là vì ở những vị trí đó, nước còn tinh khiết, không bị nhiễm tạp, sẽ giúp cho trà không bị mất đi hương vị nguyên chất của nó. Còn cầu kỳ nữa thì lấy nước sương đọng trên lá sen. Vì mỗi lá chỉ đọng được rất ít nên phải gạn vét từ nhiều lá mới đủ uống một ấm”, ông cụ giải thích.
“Gớm, uống được chén trà như bố già nói thì cái thời nay, lũ hậu thế bọn con bị cuộc sống công nghiệp lôi tuồn tuột đi không có cả thời gian dừng chân, làm gì có thời gian mà thưởng trà như bố” - Tôi buột miệng nói bỗ bã. “Thế nên các anh các chị bây giờ chỉ uống trà nhúng thôi, chẳng biết thế nào là một chén trà ngon”.
Ông cụ nói giọng đầy thương cảm. “Vầng” - Tôi thú nhận cho song chuyện. Nhưng muốn chuyển đề tài trà là thứ tôi chẳng biết gì, sang đề tài khác mà ít ra tôi còn tranh luận được, nhưng ông cụ “không tha”.
“Có nước ngon rồi, mới nói đến trà ngon. Từ thời xa xưa ấy…” , ông cụ bỏ lửng câu nói, đưa chén trà lên nhấp một ngụm nhỏ. “Chà, tuần thứ mấy rồi mà nước vẫn đượm!” - Đặt chén trà xuống khay cùng câu cảm thán, ông cụ tiếp: “Các cụ nhà ta hay uống chè tươi, chè nụ, chè xanh. Mỗi loại có cái ngon riêng của nó. Bên cạnh đó, các cụ cũng làm các loại chè khô mà người ta hay gọi là trà mộc (trà sao suốt, trà móc câu).
Trà móc câu là loại trà ngon nhất vì người trồng chè chỉ hái từ hai lá non nhất tới búp, rồi sao sấy cho tới khi búp chè săn lại, cong như lưỡi câu mới được. Đứng hàng thứ ba là chén uống trà, thứ tư là ấm. Ấm pha trà cũng có nhiều loại, nhưng người sành ấm pha trà hay nói đến loại ấm Tử Sa. Xếp vào hàng cuối cùng mới đến người pha trà và những người thưởng trà”.
Ông cụ là nghệ nhân rồi thì cách ướp và pha trà khỏi nói, còn người thưởng thức với cụ, chắc cũng phải là những “bạn hiền” biết thưởng trà không chỉ là thú vui tao nhã mà còn phải tinh tế đến tầm nghệ thuật. Ngày xuân này, ngồi nhâm nhi chén trà Tân Cương bên bàn trà ở Hiên trà Trường Xuân, tôi bỗng nhớ tới ông cụ và lại thèm được ngồi nghe ông cụ dạy cho cách thưởng trà.