Biển Đông đối mặt với nguy cơ cạn kiệt nguồn hải sản
Năm 2012, Biển Đông chiếm 12% tổng sản lượng đánh bắt hải sản toàn cầu. Nếu không có thay đổi, theo báo cáo của nhóm nghiên cứu thuộc Đại học British Columbia (UBC), khu vực biển giàu tài nguyên này đang đứng trước thách thức và có thể sẽ mất gần 60% sản lượng cá vào năm 2045.
Việc ngăn chặn thảm họa này đòi hỏi phải có đối thoại đa phương và thỏa thuận khu vực về chia sẻ nguồn tài nguyên, điều không dễ đạt được trong bối cảnh căng thẳng hiện nay.
![]() |
| Hoạt động đánh bắt quá mức đang khiến nguồn hải sản tại khu vực Biển Đông ngày càng giảm đi |
Thực trạng nguồn hải sản
Hoạt động đánh bắt quá mức khiến nguồn hải sản tại khu vực Biển Đông ngày càng giảm đi. Một báo cáo do đơn vị Nghiên cứu kinh tế nghề cá thuộc UBC thực hiện cho thấy từ năm 1950, các hoạt động đánh bắt cá và số lượng ngư dân tăng lên đều đặn.
Kết quả là đến năm 1990, sản lượng cá ở một số khu vực ở Biển Đông đã giảm 90% so với những năm 1960. Số lượng loài cá mú chấm nhỏ trong vòng 8 năm qua đã giảm 80%. Một số loài hiện nay đang đối diện với nguy cơ tuyệt chủng, trong khi vùng biển Đông Nam Á là nơi cung cấp lớn nguồn cá ngừ vây vàng trên thế giới.
Báo cáo trên cảnh báo nếu không có hành động ngay lúc này để chặn đứng đà suy giảm như hiện nay thì trong vòng ba thập niên nữa, giá tôm biển sẽ đắt hơn ba lần, giá cá thu tăng gần sáu lần so với hiện nay.
Theo khảo sát, trong thực đơn của người châu Á, đạm cá trung bình chiếm hơn 22%. Nguồn cá suy giảm còn là nguy cơ thất nghiệp cho hàng triệu ngư dân và người tham gia vào chuỗi chế biến hải sản.
Bên cạnh đó, do hải sản có vai trò quan trọng trong bữa ăn hàng ngày của người dân và đóng góp cho nền kinh tế nhiều nước trong khu vực nên vấn đề này trở nên cấp thiết hơn. Các nhà nghiên cứu cũng dự đoán nếu tình hình đánh bắt quá mức vẫn tiếp tục, giá hải sản trong tương lai sẽ tăng cao, với giá tôm đắt gấp ba lần và cá mú đắt gấp chín lần vào năm 2045.
Bà Nina Hachigian, Đại sứ Mỹ tại ASEAN, từng có bài viết trên tạp chí Diplomat nhận định tình trạng đánh bắt bất hợp pháp, không được kiểm soát đang diễn ra tràn lan trong khu vực cũng là nguyên nhân khiến sản lượng cá tại Biển Đông sụt giảm.
Một số phương thức đánh bắt của ngư dân tại Biển Đông được cho là gây phương hại nghiêm trọng đến hệ sinh thái. Mặc dù bị cấm vẫn có ngư dân dùng thuốc nổ, chất độc hay lưới cào rà đáy để đánh bắt. Những cách đánh bắt như thế không chỉ giết các loài cá mà cả san hô nơi cá trú ẩn.
Một nghiên cứu về đánh bắt hải sản bằng chất nổ được tiến hành tại Philippines gần đây cho thấy, hoạt động này xảy ra tại vùng Central Visayas gây hại cho các rạn san hô và phải mất gần 40 năm sau để diện tích các rạn san hô hồi phục được 50%.
Nhiều ngư dân Philippines vào khoảng năm 1962 còn sử dụng Sodium Cyanide (NaCN) để bắt cá biển làm cá cảnh bán. Theo đánh giá, kể từ thập niên 1960 cho đến nay có hơn một triệu kg chất NaCN được đổ xuống các khu vực san hô của Philippines để bắt cá cảnh.
Ngoài ra nhu cầu sử dụng của thực khách Đặc khu hành chính Hong Kong (Trung Quốc) cũng như những người giàu có tại những thành phố lớn khác của châu Á đối với những loài cá sống trong các rạn san hô cũng là động cơ thúc đẩy nhiều ngư dân sử dụng chất cấm này để bắt cá.
Mối đe dọa với nguồn hải sản
Các nước trong khu vực "đóng vai trò" quan trọng trong sự suy giảm này, trong đó Trung Quốc gây tác động lớn nhất. Từ năm 1978-2013, sản lượng cá Trung Quốc đánh bắt tăng từ 5 triệu lên 60 triệu tấn/năm. Năm 2013, Trung Quốc chiếm tới 17% sản lượng đánh bắt toàn cầu.
Nhu cầu hải sản tăng mạnh vì kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng mạnh hơn. Trong khi đó, theo Chính phủ Trung Quốc, kể từ khi hơn 80% bờ biển Trung Quốc bị ô nhiễm nặng, ngư dân nước này buộc phải khai thác xa bờ nhiều hơn. Chính phủ khuyến khích sự mở rộng đó thông qua trợ giá hào phóng cho đóng tàu và mua nhiên liệu.
Ví dụ, ngư dân được hưởng trợ cấp nhiên liệu đặc biệt để tiến hành đánh bắt cá ở vùng biển xung quanh các quần đảo đang tranh chấp. Sự hỗ trợ chính thức này dẫn đến việc đánh bắt nhiều hơn.
Mới đây, Trung Quốc đã gửi đi tín hiệu quan tâm đến tình trạng đánh bắt cá quá mức ở Biển Đông. Tuy nhiên, việc ban hành lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương ở khu vực tranh chấp (biện pháp Trung Quốc ưa dùng để giải quyết vấn đề) không phải là giải pháp, trừ khi các bên tuyên bố chủ quyền khác đồng ý với biện pháp này. Các thỏa thuận song phương không có tác dụng chặn đà suy giảm sản lượng cá cũng như làm giảm căng thẳng giữa ngư dân khi thực hiện các hoạt động đánh bắt trên biển.
Trong bối cảnh đó, bất kỳ giải pháp nào cũng cần được tiến hành đa phương nhưng lại đang bị cản trở bởi bế tắc chính trị hiện nay. Các nước, trong đó có Trung Quốc, cần bắt đầu thảo luận thỏa thuận khung về đánh bắt cá khu vực, lập ra các khu vực bảo tồn và hành lang cho phép đánh bắt trên cơ sở đồng thuận. Trung Quốc và một số nước cũng cần chấm dứt trợ giá cho hoạt động đánh bắt cá ở khu vực tranh chấp.
Tin liên quan
Tin khác
Tín chỉ carbon rừng Việt Nam trước “cửa sổ” thị trường quốc tế
Lộ trình áp dụng IFRS - xu hướng tất yếu với doanh nghiệp Việt Nam
Khai trương văn phòng Trung tâm tài chính quốc tế Việt Nam tại Đà Nẵng
Trung Quốc: Hoạt động nhà máy nối dài chuỗi thu hẹp kỷ lục
Thị trường hàng hóa: Cà-phê và dầu thô vẫn giữ sức nóng
Thị trường hàng hóa: Giá ca-cao tạo đáy, dầu thô mất đà
Thị trường hàng hóa: Lực mua quay lại giành ưu thế, MXV-Index nhích nhẹ
Xây dựng thành công trung tâm tài chính quốc tế sẽ mở ra chương mới cho Đà Nẵng
ADB bãi bỏ hạn mức cho vay, cho phép tăng 50% tổng vốn cho vay lên hơn 36 tỷ đô la



