Các giải pháp để du lịch phát triển nhanh và bền vững
Vốn tín dụng ngân hàng: Đòn bẩy tạo điều kiện phát triển du lịch | |
Cải thiện trải nghiệm du khách: Cần sự chung tay từ nhiều phía |
Ảnh minh họa |
Mở rộng và tăng thời gian miễn thị thực
Sau khi lần đầu tiên được vinh danh là một trong những điểm đến di sản hàng đầu thế giới vào năm 2019, du lịch Việt Nam đã thu hút trên 18 triệu lượt khách quốc tế trong năm ngoái - mức cao nhất từ trước đến nay và đặt mục tiêu đón khoảng 20,5 triệu lượt khách quốc tế năm 2020. Tổng thu từ khách du lịch trong năm 2019 đạt 726 nghìn tỷ đồng và được kỳ vọng sẽ đạt trên 830.000 tỷ đồng năm 2020… Mục tiêu trở thành điểm đến du lịch hàng đầu tại khu vực ASEAN vì thế cũng không phải xa vời.
Có rất nhiều đề xuất được đưa ra để du lịch của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng nhanh và cán những mốc mới. Trong đó, Tiểu ban Du lịch và Nhà hàng – Khách sạn thuộc EuroCham gần đây đã đưa ra nhiều khuyến nghị liên quan đến chính sách thị thực nhập cảnh vì cho rằng đây là một trong những chính sách có tác động lớn nhất đến lưu lượng khách du lịch quốc tế.
Tiểu ban này cho rằng, việc Việt Nam hiện tại miễn thị thực nhập cảnh cho 24 quốc gia là thấp hơn nhiều so với các quốc gia thành viên khác trong ASEAN. Thêm vào đó, Việt Nam chủ yếu miễn thị thực trong 15 ngày, ngắn hơn rất nhiều so với thời gian miễn thị thực của bất cứ quốc gia thành viên nào trong ASEAN cấp cho du khách (thường là 30 ngày).
“Điều này không chỉ gây hạn chế về thời gian du lịch mà còn gây khó khăn cho các công ty tổ chức tour du lịch trong quá trình lập kế hoạch du lịch cho du khách. Điều này đặc biệt đúng với du khách châu Âu. Các chuyến bay thẳng đường dài từ châu Âu đến Việt Nam kéo dài trung bình 12 tiếng và phải bay qua đêm, như vậy trên thực tế, thời gian miễn thị thực tại Việt Nam đã bị giảm xuống chỉ còn 13 ngày”, Tiểu ban Du lịch của EuroCham phân tích.
Từ đó, Tiểu ban này khuyến nghị cần mở rộng danh sách các nước được miễn thị thực để ngành du lịch có thể phát huy đầy đủ vai trò quan trọng của mình, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam. Việc mở rộng danh sách các quốc gia được miễn thị thực nên áp dụng với tất cả các quốc gia mà Việt Nam đã ký kết FTA, trong đó bao gồm các nước thành viên EU, các đối tác thương mại hoặc đầu tư quan trọng và các thị trường mục tiêu của du lịch trong nước.
Bên cạnh đó, cần kéo dài thời hạn miễn thị thực từ 15 ngày lên 30 ngày, bởi điều này sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch khi cho phép du khách có thời gian lưu trú đủ dài để khám phá văn hóa và thắng cảnh của Việt Nam.
Đồng thời, cần nhanh chóng làm rõ các thủ tục và quy định về việc cho phép quay lại Việt Nam trong vòng 30 ngày đối với các du khách được miễn thị thực, cũng như cải thiện giao diện, tốc độ và thủ tục truy cập trang web cấp thị thực điện tử; mở rộng danh sách các quốc gia có công dân được phép xin cấp thị thực điện tử để giúp du khách tiết kiệm thời gian, giảm thiểu hồ sơ hành chính. Ngoài ra, nên cho phép cấp thị thực quá cảnh tại cửa khẩu với thời hạn lên đến 72 giờ đối với hành khách nối chuyến bay và nỗ lực hơn nữa để cho phép các hãng hàng không quốc tế bay đến các sân bay ở Việt Nam, qua đó giúp giảm thiểu thời gian di chuyển cho du khách quốc tế.
Phát triển du lịch kết nối khu vực
Các giải pháp để tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng du lịch nhanh là cần thiết nhưng việc chú trọng nâng cao tính bền vững của ngành du lịch cũng quan trọng không kém. Bền vững du lịch là quá trình liên tục sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên môi trường, tăng cường tôn trọng đối với cộng đồng bản xứ và đảm bảo các hoạt động kinh tế lâu dài khả thi.
Liên quan đến bền vững môi trường, theo Báo cáo năng lực cạnh tranh ngành lữ hành và du lịch 2019 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), thứ hạng của Việt Nam đã tăng 8 bậc từ vị trí 129/136 lên 121/140, nhờ chỉ số phê chuẩn hiệp ước môi trường thăng tiến mạnh mẽ (tăng 24 bậc). Tuy nhiên, các chỉ số khác đã tụt hạng bao gồm thực thi các quy định về môi trường (giảm 23 bậc), phát triển bền vững ngành du lịch và lữ hành (giảm 12 bậc), mức độ nghiêm ngặt của các quy định về môi trường (giảm 11 bậc), thay đổi độ che phủ rừng (giảm 10 bậc). Đây là tín hiệu rõ ràng cho thấy cần củng cố các quy định đã có cũng như có các biện pháp thực thi mới.
“Sử dụng năng lượng hợp lý; giảm lượng khí thải carbon và giảm phát thải; quản lý chất thải, giao thông vận tải, y tế, an toàn và việc làm cùng sự tham gia có ý nghĩa của ngành du lịch vào cộng đồng địa phương chính là chìa khóa cho du lịch bền vững”, ông Kenneth Atkinson - Trưởng nhóm công tác Du lịch, Diễn đàn VBF nêu quan điểm.
Đề xuất tới các giải pháp cụ thể ông Kenneth Atkinson cho rằng, cần kiểm soát, giảm tải các điểm đến quá đông du khách và đảm bảo đa dạng hóa bền vững tại các khu vực và địa điểm du lịch mới. Trong đó, phát triển các dịch vụ du lịch sinh thái, thành phố thông minh, tái trồng rừng… sẽ giúp đa dạng hóa danh sách điểm đến, giảm tải tại các khu vực quá đông đúc.
Bên cạnh đó, chính sách đầu tư từ khu vực công hoặc thông qua mô hình đối tác công tư là cần thiết để phát triển các cơ sở mới. Mỗi phòng khách sạn hay địa điểm du lịch mới đều làm gia tăng nhu cầu về điện, nước, quản lý chất thải và các dịch vụ cơ bản khác, gây ảnh hưởng đến môi trường. Do đó, một kế hoạch hoàn chỉnh cần được đưa vào giấy phép ban đầu để đảm bảo tất cả các khía cạnh liên quan đến môi trường đều được cân nhắc và vận hành bền vững.
Phát triển hơn nữa du lịch kết nối khu vực cũng là cách để tăng tính đa dạng và bền vững. Các đề xuất như liên kết giữa tỉnh Quảng Ninh (Việt Nam), Udon Thani (Thái Lan) và Luông Pha Băng (Lào) là một phương thức hiệu quả để cải thiện kết nối, chia sẻ lợi nhuận và quảng bá khu vực “Tam giác Di sản Thế giới”. Các hoạt động tương tác tương tự có thể đạt hiệu quả tại những khu vực khác ở miền trung, cao nguyên và miền nam Việt Nam nên cần được thúc đẩy. Ngoài ra, cần phát triển lực lượng lao động du lịch mới và đào tạo lại nhân viên cũ để giúp giải quyết nguy cơ thiếu lao động chuyên nghiệp trong ngành trong tương lai.