Để tránh thất thoát tài sản công
Đề nghị mở rộng đối tượng giám sát tài sản công | |
Cần bổ sung việc giám sát của người dân và truyền thông đối với tài sản công | |
Tài sản công cần được khai thác hiệu quả |
Chỉ 1/10 số tài sản công được quản lý
Một báo cáo về tài sản công do Chính phủ vừa trình Quốc hội cho thấy, tổng tài sản Nhà nước hiện đang có là 1,04 triệu tỷ đồng, bao gồm quyền sử dụng đất, nhà, xe ô tô công và các tài sản khác (trị giá trên 500 triệu đồng). Tuy nhiên, TS. Lưu Bình Nhưỡng, Uỷ viên thường trực Uỷ ban về Các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng, số tài sản được ghi nhận này chỉ chiếm khoảng 1/10 trong tổng tài sản của Nhà nước.
Hiện có đến 10 triệu tỷ đồng tài sản nhà nước đang nằm rải rác ở khắp nơi, song chúng ta mới quản lý được hơn 1 triệu tỷ đồng, tức là còn 9 phần đang để bên ngoài. “Để bên ngoài có nghĩa là buông lỏng quản lý, từ buông lỏng quản lý mới sinh ra nhiều tiêu cực khác. Đơn cử anh ném xe đạp, xe máy của anh ngoài đường thì chắc chắn sẽ có kẻ trộm”, ông Nhưỡng bình luận.
Khoán xe công là mô hình thí điểm để quản lý hiệu quả tài sản công |
Theo con số thống kê được, tài sản trong khu vực hành chính sự nghiệp hiện nay chiếm xấp xỉ 70% tổng tài sản của các cơ quan, đơn vị. Và số này chủ yếu do Bộ Tài chính thống kê, quản lý. Trong khi đó, theo ôngVũ An Khang, Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Tổng giám đốc Công ty CP định giá và dịch vụ tài chính Việt Nam (VVFC), quản lý tài sản công không chỉ riêng ở Bộ Tài chính, mà cơ chế hiện nay phân tán, do nhiều bộ quản lý. Bộ Tài chính thực chất quản lý tài sản công trong các đơn vị hành chính sự nghiệp là chính, khối doanh nghiệp, hay khối khác do đơn vị khác quản lý. Ví dụ, Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý khối tài sản công rất lớn là tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản, đất đai, nước…
Một cơ quan khác như Bộ Thông tin và Truyền thông tưởng như không có tài sản công nhưng thực chất đó chính là hạ tầng cơ sở viễn thông, đường truyền cáp quang, băng tần… Đó là những tài sản hữu hình nhưng chưa được ghi nhận cụ thể, do đó dễ dẫn tới tình trạng khai thác lãng phí, gây thất thoát mà không ai phải chịu trách nhiệm.
Vì chưa được ghi nhận đầy đủ, nên nhiều loại tài sản công hiện nay không chịu sự điều chỉnh, kiểm soát của các luật. Điều này tạo ra lỗ hổng để một số đối tượng lách qua đó, sử dụng đặc quyền để khai thác các tài sản này nhằm trục lợi. Ông Lưu Bình Nhưỡng nêu bất cập khi địa phương nào cũng có cảng biển, sân bay dẫn đến đầu tư quá dàn trải. Thực tế này cho thấy các nguồn tài sản tự nhiên là vùng trời, vùng biển… chưa được đưa vào hệ thống quản lý chặt chẽ. Chỉ tới ngày nay khi việc đầu tư dàn trải, lãng phí đã xảy ra trên diện rộng, chúng ta mới nhìn lại và thấy nhiều nguồn lực đã bị sử dụng không đúng mục đích hoặc chưa hiệu quả.
Một ví dụ khác là các DNNN đầu tư không hiệu quả, gây thất thoát hàng chục nghìn tỷ cũng là sử dụng tài sản công gây thất thoát. Hoặc trong lĩnh vực khai thác khoáng sản, một doanh nghiệp được nhận mỏ nhưng chưa làm gì đã chuyển nhượng cho người khác rồi thu về hàng chục tỷ đồng. Hiện tượng này là điển hình cho việc trục lợi từ tài sản công, dù đã diễn ra thường xuyên và phổ biến song do nguồn lực khoáng sản chưa được ghi nhận rõ ràng là một loại tài sản công, vì vậy việc xử lý sai phạm chưa thể đi đến cùng.
Lấp lỗ hổng bằng luật
Bình luận về những lỗ hổng trong quản lý tài sản công, PGS. - TS. Đinh Văn Nhã, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội cho rằng, nguyên nhân gây ra việc buông lỏng quản lý là do thực thi pháp luật liên quan đến công khai trong quản lý tài sản còn hết sức yếu kém. “Tài sản công là tài sản thuộc sở hữu toàn dân nhưng hình như cho đến nay người dân đứng ngoài cuộc trong tất cả các khâu liên quan đến quy trình quản lý và sử dụng tài sản công trong phạm vi cả nước”, ông Nhã nhấn mạnh.
Thực tế là hệ thống pháp luật của Việt Nam về quản lý tài sản công đã bước đầu hình thành nền tảng cơ bản, tuy nhiên, các chế tài về quản lý tài sản công hiện nay còn phân tán. Chúng ta đã có Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, nhưng luật này chỉ điều chỉnh tài sản công ở khu vực hành chính sự nghiệp, tài sản ở khu vực quốc phòng an ninh; tài sản ở các tổ chức chính trị xã hội, hay một ít tài sản ở các dự án đầu tư của nhà nước. Còn lại các tài sản khác như tài sản được thiên nhiên ban tặng thì được điều chỉnh bằng một số các luật chuyên ngành như Luật Đất đai, Luật Khoáng sản, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Tài nguyên nước và một số luật khác.
Ông Nguyễn Tân Thịnh, Phó cục trưởng Cục Quản lý công sản, Bộ Tài chính nêu lên hạn chế khác là do chưa có luật nào quy định những quyên tắc chung trong quản lý, sử dụng tài sản công, nên đối với mỗi loại tài sản cụ thể, tùy theo mục tiêu quản lý chuyên ngành mà có các quy định về chế độ sử dụng khác nhau, chưa có những mục tiêu chung. Trong hệ thống văn bản có những điểm chưa đầy đủ, chưa phù hợp và còn chồng chéo.
Để khắc phục được những nhược điểm này, PGS. - TS. Đinh Văn Nhã cho biết, dự án Luật Quản lý, sử dụng tài sản công dự kiến được thông qua tại Kỳ họp thứ 3 tới đây sẽ đặt ra khuôn khổ pháp lý quan trọng, bao gồm nhiều giải pháp tích cực để khắc phục tồn tại, khiếm khuyết trong hệ thống pháp luật cũng như tạo ra cơ sở pháp lý nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong quản lý, sử dụng tài sản công.
Theo đó, luật lần này đã đưa khái niệm về tài sản công bao quát, đầy đủ, là bước cụ thể hóa khái niệm tài sản công theo Hiến pháp 2013. Tất cả tài sản công của đất nước dù là hiện vật hay dưới hình thức là tiền đều được thể hiện trong khái niệm này. Song song với khái niệm tài sản công thì luật lần này đã chỉ ra 6 nguyên tắc cơ bản để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong quản lý. Khi nguyên tắc quản lý thống nhất thì sẽ giải quyết được vấn đề nơi thì thừa, nơi thì thiếu nguồn lực.
Một điểm tích cực khác, luật xử lý được tồn tại rất lớn là nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản, hay nói cách khác là có thể khai thác được nhiều nguồn lực tài chính trong quá trình quản lý và sử dụng tài sản công. Lâu nay các vấn đề chúng ta đang thí điểm sẽ được luật hóa, từ khoán xe công, mua sắm tập trung cho đến xây dựng mô hình hành chính tập trung, tất cả liên quan đến quản lý, khai thác khoáng sản tài nguyên mà không hiệu quả, các hình đấu thầu tài sản đều sẽ được công khai, minh bạch.
Ông Nhã nhấn mạnh, đây là lần đầu tiên chúng ta chính thức có hành lang pháp lý để đất nước có một cơ quan tổ chức hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu đồng bộ trong phạm vi cả nước, đi kèm với đó là hệ thống dịch vụ tài sản công. “Khi luật ra đời sẽ tiến hành từng bước, không thể ngày một ngày hai nhưng sau 5-10 năm nữa thì trên bàn của lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ chỉ cần một bản nhỏ là biết từng khu vực tài sản bao nhiêu, giá trị như thế nào. Đây là tín hiệu mừng để nâng cao việc quản lý, sử dụng tài sản và đặc biệt là thị trường dịch vụ cho tài sản công phát triển”, ông Nhã kỳ vọng.