Điểm lại thông tin kinh tế tuần từ 30/1 - 3/2
Điểm lại thông tin kinh tế ngày 2/2 | |
Điểm lại thông tin kinh tế ngày 1/2 |
Tổng quan
Các chỉ số kinh tế vĩ mô của tháng 1/2023 cho thấy, bên cạnh một số điểm sáng, nền kinh tế nhìn chung đang đối mặt với nhiều khó khăn. Tuy nhiên, vẫn phải nhắc đến yếu tố mùa vụ khi tháng này có kỳ nghỉ Tết Dương lịch và Tết Nguyên đán.
Báo cáo tháng 1/2023 của Tổng cục Thống kê vừa công bố cho thấy, tình hình kinh tế - xã hội có những tín hiệu tích cực. Theo đó, chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 1/2023 tăng 4,89% so với cùng kỳ năm trước, là mức được kiểm soát phù hợp, khi nguồn cung hàng hóa trong dịp Tết Nguyên đán dồi dào song giá cả hàng hóa tiêu dùng thiết yếu tương đối ổn định. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cũng đã tăng 20% so với cùng kỳ năm trước.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, tiến độ gieo cấy lúa đông xuân ở các địa phương phía Nam tăng so với cùng kỳ năm trước, chăn nuôi ổn định, cùng với nuôi trồng thủy sản được đẩy mạnh thu hoạch, đã góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng dịp Tết Nguyên đán.
Ngoài ra, ngành du lịch cũng góp phần với lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng đạt 870 nghìn lượt người, tăng 23% so với tháng trước và gấp 44 lần cùng kỳ năm trước nhờ các chương trình thu hút khách du lịch quốc tế được đẩy mạnh sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát.
Về lĩnh vực đầu tư, tỷ lệ vốn thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước đạt 4% kế hoạch năm và tăng 3,2% so với cùng kỳ. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký mới trong tháng 1/2022 tăng gấp 3 lần so với cùng kỳ năm 2022.
Cán cân thương mại hàng hóa tháng 1/2023 ước tính xuất siêu 3,6 tỷ USD.
Bên cạnh đó, đã xuất hiện những tín hiệu báo hiệu kinh tế đang gặp khó khăn. Cụ thể, chỉ số sản xuất công nghiệp IIP tháng 1/2023 giảm 14,6% so với tháng trước và giảm 8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số sản xuất ngành chế biến, chế tạo giảm 9,1% so với cùng kỳ năm trước.
Tháng 1/2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước đều giảm. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tháng 1 ước đạt 46,56 tỷ USD, giảm 17,3%, so với tháng trước và giảm 25% so với cùng kỳ năm trước (trong đó xuất khẩu giảm 21,3%; nhập khẩu giảm 28,9% so với cùng kỳ năm trước). Không chỉ là nông, lâm, thủy sản, xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến chế tạo, bao gồm cả thiết bị điện tử, điện thoại, vốn là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất trong những năm gần đây, cũng đang chững lại.
Một yếu tố nữa cho thấy kinh tế đang gặp khó khăn làơ trong tháng đầu năm, có tới gần 43.900 doanh nghiệp rút khỏi thị trường, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước. Điều đáng nói là trong tháng 1/2023, chỉ có 10.800 doanh ngiệp thành lập mới và 15.100 doanh ngiệp quay trở lại hoạt động, tổng số cũng chỉ là 25.900 doanh ngiệp, giảm 19,3% so với cùng kỳ năm trước và thấp hơn nhiều so với con số 43.900 doanh ngiệp rút lui.
Nguyên nhân khách quan được kể đến là do Tết Dương lịch và Tết Nguyên đán diễn ra trong tháng 1/2023, nên số ngày làm việc ít hơn 8-10 ngày so với tháng trước và cùng kỳ năm trước. Theo các chuyên gia, mọi sự so sánh so với tháng trước hay cùng kỳ năm trước đều không phản ánh hết tình hình, do năm thì Tết Nguyên đán rơi vào tháng 1, năm lại rơi vào tháng 2. Con số chung của 2 tháng mới cho thấy hết được xu hướng của nền kinh tế, thuận lợi hay khó khăn, so với cùng kỳ các năm trước.
Tuy vậy, đáng chú ý, IIP tháng 1/2023 so với cùng kỳ năm trước lại giảm chủ yếu ở các địa phương có quy mô sản xuất công nghiệp lớn, như: TP.HCM (giảm 21,4%), Đồng Nai (giảm 15,7%), Vĩnh Phúc (giảm 28,7%), Bình Dương (giảm 17,4%), …
Trên thực tế, xu hướng sụt giảm đơn hàng đã xuất hiện từ quý IV/2022, do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế thế giới, nhiều đối tác kinh tế lớn của Việt Nam lâm vào cảnh khó khăn, tiêu dùng giảm.
Thêm vào đó, Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam do S&P Global Market Intelligence khảo sát chỉ đạt 47,4 điểm trong tháng 1/2023, dù cao hơn mức 46,4 điểm trong tháng 12/2022 nhưng vẫn cho thấy sức khỏe ngành sản xuất suy giảm mạnh. S&P Global Market Intelligence cho biết, nhu cầu hàng hóa của các công ty sản xuất ở Việt Nam vẫn còn yếu vào đầu năm 2023 khiến sản lượng, số lượng đơn đặt hàng mới và việc làm tiếp tục giảm. Tuy nhiên, đã có một số dấu hiệu tích cực từ lần khảo sát PMI này. Một trong những điểm tích cực chính trong tháng 1/2023 là số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới tăng, từ đó tốc độ giảm tổng số lượng đơn đặt hàng mới đã chậm lại.
Việc nới lỏng các hạn chế liên quan đến Covid-19 ở Trung Quốc, cộng với những dấu hiệu cho thấy suy thoái ở châu Âu và Mỹ có thể ít nghiêm trọng hơn dự kiến, đã mang lại niềm lạc quan về khả năng tăng trưởng ở Việt Nam. Trên thực tế, niềm tin kinh doanh đã cải thiện thành mức cao của ba tháng vào đầu năm.
Tuy nhiên, mặc dù nhiều kỳ vọng đang được đặt vào Trung Quốc khi thị trường này mở cửa trở lại, tình hình vẫn có thể khó khăn hơn khi các doanh ngiệp Trung Quốc cũng đang tìm kiếm các đơn hàng mới với sức cạnh tranh lớn cả về đơn hàng và giá cả. Vì vậy, việc Trung Quốc mở cửa trở lại có thể tạo thuận lợi cho đầu vào, nhưng gây khó khăn không ít cho đầu ra. Các doanh ngiệp Việt Nam phải lưu ý đến vấn đề này, tìm kiếm và tận dụng các cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do FTA để tăng cường sản xuất và xuất khẩu.
Tóm lược thị trường trong nước từ 30/1 - 3/2
Thị trường ngoại tệ trong tuần từ 30/1 - 3/2, tỷ giá trung tâm tiếp tục được NHNN điều chỉnh tăng - giảm nhẹ qua các phiên. Chốt ngày 3/2, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 23.606 VND/USD, giảm nhẹ 2 đồng so với cuối tuần trước đó.
Sở giao dịch NHNN tiếp tục niêm yết tỷ giá mua USD ở 23.450 VND/USD; giá bán ở 24.780 VND/USD.
Tỷ giá USD liên ngân hàng dao động quanh mốc tỷ giá mua của NHNN qua các phiên trong tuần qua. Chốt phiên giao dịch cuối tuần 3/2, tỷ giá USD liên ngân hàng đóng cửa tại 23.454 VND/USD, giảm 19 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá USD trên thị trường tự do biến động theo xu hướng tăng nhẹ trong tuần qua. Chốt phiên 3/2, tỷ giá USD tự do tăng 70 đồng ở cả hai chiều mua vào và chiều bán ra so với tuần trước đó, giao dịch tại 23.510 VND/USD và 23.560 VND/USD.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng tuần từ 30/1 - 3/2, lãi suất VND liên ngân hàng biến động tăng - giảm đan xen. Chốt ngày 3/2, lãi suất VND liên ngân hàng giao dịch quanh mức: qua đêm 6,12% (-0,08 điểm phần trăm so với phiên cuối tuần trước đó); 1 tuần 6,52% (-0,02 điểm phần trăm); 2 tuần 7,13% (+0,05 điểm phần trăm); 1 tháng 7,75% (-0,21 điểm phần trăm).
Lãi suất USD liên ngân hàng tăng ở tất cả các kỳ hạn qua các phiên. Phiên cuối tuần 3/2, lãi suất USD liên ngân hàng đóng cửa ở mức: qua đêm 4,46% (+0,16 điểm phần trăm); 1 tuần 4,58% (+0,15 điểm phần trăm); 2 tuần 4,70% (+0,17 điểm phần trăm) và 1 tháng 4,82% (+0,12 điểm phần trăm).
Thị trường mởtuần từ 30/1 - 3/2, NHNN chào thầu 83.000 tỷ đồng trên kênh cầm cố với kỳ hạn 7 ngày, lãi suất ở mức 6,0%, có 77.186,68 tỷ đồng trúng thầu; có 67.647,67 tỷ đồng đáo hạn. NHNN chào thầu tín phiếu NHNN cũng với kỳ hạn 7 ngày ở phiên cuối tuần, có 15.000 tỷ đồng tín phiếu trúng thầu với lãi suất trúng thầu ở mức 5,79%; có 54.999,99 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn.
Như vậy, NHNN bơm ròng 49.538,91 tỷ đồng ra thị trường thông qua nghiệp vụ thị trường mở, khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố ở mức 101.813,81 tỷ đồng, tín phiếu NHNN ở mức 15.000 tỷ đồng.
Thị trường trái phiếu ngày 1/2, Kho bạc nhà nước huy động 15.500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, khối lượng trúng thầu là 14.670 tỷ đồng (đạt 95%). Trong đó, kỳ hạn 10 năm và 15 năm huy động được lần lượt 7.500 đồng và 7.170 tỷ đồng. Riêng kỳ hạn 5 năm không có khối lượng trúng thầu. Lãi suất trúng thầu hai kỳ hạn 10 năm và 15 năm lần lượt tại 4,20%/năm và 4,40%/năm (cùng giàm 0,16 điểm phần trăm so với phiên trước).
Tuần vừa qua, từ 30/1 - 3/2 có 5.328 tỷ trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm đáo hạn.
Về kế hoạch đấu thầu, trong tuần 6 - 10/2, Kho bạc Nhà nước dự kiến gọi thầu 10.500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trong đó kỳ hạn 5 năm gọi 500 tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm gọi 5.000 tỷ đồng và kỳ hạn 15 năm gọi 5.000 tỷ đồng.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 3.656 tỷ đồng/phiên, tăng so với mức 3.404 tỷ đồng/phiên của tuần trước nghỉ lễ. Trong tuần qua, lợi suất trái phiếu chính phủ tiếp tục giảm mạnh ở tất cả các kỳ hạn. Chốt phiên 3/2, lợi suất trái phiếu chính phủ giao dịch quanh 1 năm 3,76% (-0,6 điểm phần trăm); 2 năm 3,76% (-0,6 điểm phần trăm); 3 năm 3,78% (-0,59 điểm phần trăm); 5 năm 3,83% (-0,55điểm phần trăm); 7 năm 3,84% (-0,61 điểm phần trăm); 10 năm 4,14% (-0,38 điểm phần trăm); 15 năm 4,36% (-0,27 điểm phần trăm); 30 năm 4,91% (-0,23 điểm phần trăm).
Thị trường chứng khoán tuần từ 30/1 - 3/2 khá ảm đạm khi chứng kiến một số phiên giảm điểm mạnh và giá trị giao dịch thấp. Chốt ngày 3/2, VN-Index đứng ở mức 1.177,15 điểm, giảm 25,42 điểm (-2,31%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index mất 5,50 điểm (-2,49%) còn 215,28 điểm; UPCoM-Index tăng nhẹ 0,14 điểm (+0,19%) lên 73,54 điểm.
Thanh khoản thị trường duy trì ở mức thấp với giá trị giao dịch trung bình đạt gần 14.700 tỷ đồng/phiên. Khối ngoại mua ròng gần 340 tỷ đồng trên cả 3 sàn trong tuần qua.
Tin quốc tế
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương Anh (BOE) và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đồng loạt tăng lãi suất chính sách trong tuần vừa qua.
Sáng ngày 2/2 theo giờ Việt Nam, Fed thông báo báo nâng lãi suất chính sách 25 điểm cơ bản từ mức 4,25% - 4,50% lên 4,50% - 4,75% nhằm đạt được toàn dụng nhân công và lạm phát ở mức 2,0% trong dài hạn. Ngoài ra, Fed cho rằng tiếp tục nâng lãi suất chính sách trong tương lai là điều phù hợp để hạ nhiệt lạm phát theo thời gian. Song, Fed cũng trấn an rằng, để xác định mức tăng lãi suất chính sách trong tương lai, cơ quan này sẽ tính tới sự tích lũy thắt chặt chính sách tiền tệ và độ trễ mà chính sách tiền tệ tác động lên nền kinh tế, lạm phát.
Chiều ngày 2/2, BOE tăng lãi suất chính sách 50 điểm cơ bản từ 3,5% lên 4,0%, đánh dấu lần tăng lãi suất chính sách mạnh thứ năm liên tiếp kể từ 8/2022.
Ngay sau BOE, ECB cũng tăng lãi suất chính sách 50 điểm cơ bản, theo đó lãi suất tái cấp vốn tăng từ 2,5% lên 3,0%; lãi suất cho vay cận biên từ 2,75% lên 3,25%; và lãi suất tiền gửi từ 2,0% lên 2,5%; có hiệu lực từ ngày 8/2.
Cả BOE và ECB đều hướng tới mục tiêu đưa lạm phát về lại mức mục tiêu 2,0% trong trung hạn. BOE dự báo lãi suất chính sách sẽ tăng lên 4,5% vào giữa năm 2023, hạ dần xuống còn 3,5% trong vòng 3 năm. ECB thậm chí dự định tăng lãi suất chính sách 50 điểm cơ bản ngay trong cuộc họp vào tháng Ba, sau đó sẽ đánh giá về lộ trình tiếp theo.
Ở các báo cáo mới nhất, CPI tại Mỹ và Anh lần lượt tăng 6,5% và 10,5% so với cùng kỳ trong tháng 12/2022; CPI tại Eurozone tăng 8,5% so với cùng kỳ trong tháng 1/2023. Như vậy, có thể thấy các Ngân hàng Trung ương lớn vẫn còn quan ngại về lạm phát cao, dai dẳng, thêm vào đó là những bất ổn tới từ cuộc xung đột Nga - Ukraine. Xu hướng tăng lãi suất chính sách của các Ngân hàng Trung ương trên đã kéo dài hơn một năm, có thể đang đi tới giai đoạn cuối khi lạm phát đã tạo đỉnh. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa lãi suất chính sách sẽ sớm giảm trở lại, ít nhất trong nửa đầu năm nay.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) lần đầu nâng triển vọng kinh tế thế giới sau một năm. Trong báo cáo Cập nhật Triển vọng Kinh tế Toàn cầu ngày 30/1, IMF dự báo GDP thế giới tăng 2,9% trong năm nay (+0,2 điểm phần trăm so dự báo hồi tháng 10/2022). Trong các nền kinh tế lớn, GDP Mỹ được dự báo tăng 1,4% (+0,4 điểm phần trăm); Eurozone tăng 0,7% (+0,2 điểm phần trăm); Nhật Bản tăng 1,8% (+0,2 điểm phần trăm); riêng nước Anh giảm 0,6% (-0,9 điểm phần trăm).
Tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, IMF dự báo Trung Quốc tăng trưởng 5,2% (+0,8 điểm phần trăm); Ấn Độ tăng 6,1% (0,0 điểm phần trăm) và ASEAN5 tăng 4,3% (-0,2 điểm phần trăm). Mặc dù được nâng triển vọng, song kinh tế thế giới năm 2023 vẫn tăng thấp hơn so với mức trung bình 3,8% đạt được trong vòng 20 năm từ 2000 - 2019. Bên cạnh tăng trưởng kinh tế, IMF cũng dự báo lạm phát toàn cầu sẽ giảm tốc từ mức 8,8% năm 2022 xuống 6,6% trong năm 2023 và 4,3% năm 2024, vẫn cao hơn mức trung bình 3,5% ở các năm 2017 - 2019, trước khi Covid-19 tác động.
Mỹ ghi nhận nhiều thông tin kinh tế đáng chú ý trong tuần vừa qua. Đầu tiên, PMI lĩnh vực sản xuất tại nước này chỉ đạt 47,4% trong tháng Một, giảm xuống từ 48,4% của tháng trước đó, sâu hơn mức 48,0% theo dự báo. Tuy nhiên, PMI lĩnh vực dịch vụ đạt 55,2% trong tháng vừa qua, tăng mạnh từ 49,6% của tháng trước đó, vượt so với 50,5% theo kỳ vọng.
Ở thị trường lao động, thu nhập bình quân của người dân Mỹ tăng 0,3% so với tháng trước trong tháng 1, nối tiếp đà tăng 0,4% của tháng 12. Quốc gia này cũng tạo ra 517 nghìn việc làm mới trong tháng đầu năm 2023, cao hơn nhiều so với con số 260 nghìn của tháng trước đó, vượt mạnh dự báo chỉ đạt 193 nghìn. Cuối cùng, tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ trong tháng 1 giảm xuống còn 3,4% từ mức 3,5% của tháng 12, trái với dự báo tăng lên 3,6%.