Chỉ số kinh tế:
Ngày 17/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.146 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.934/26.348 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Dự án “Lịch sử đồng tiền Việt Nam - Quá trình hình thành và phát triển” được đánh giá xếp loại xuất sắc

PV
PV  - 
Ngày 13/11/2019, tại trụ sở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN đã tổ chức buổi họp Hội đồng tư vấn đánh giá nghiệm thu dự án KH&CN “Lịch sử đồng tiền Việt Nam - quá trình hình thành và phát triển” do Phó Thống đốc thường trực NHNN Việt Nam, TS. Đào Minh Tú làm chủ nhiệm Dự án.
aa
Dự án “Lịch sử đồng tiền Việt Nam - Quá trình hình thành và phát triển” được đánh giá xếp loại xuất sắc
Phó Thống đốc Đào Minh Tú - Chủ nhiệm đề tài, phát biểu tại sự kiện

Đồng tiền Việt Nam đã có lịch sử hơn một nghìn năm với bao thăng trầm và thay đổi. Trải qua chiến tranh và thời gian, các tài liệu, thư tịch liên quan, hoặc ghi chép về Tiền Việt Nam đến nay còn khiêm tốn. Việc nghiên cứu lịch sử tiền tệ Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước, các nhà sưu tầm tiền tư nhân được công bố, bước đầu đạt được những thành tựu.

Tuy nhiên, trong suốt chiều dài lịch sử, từng phân khúc tiền tệ vẫn chỉ là những nét đậm - nhạt khác nhau, thậm chí còn trái ngược nhau trong nhận định và học thuật. Cho đến nay, chưa có một công trình mang tính hệ thống bao quát toàn bộ tiền tệ Việt Nam trong lịch sử. Vì thế, để có một cái nhìn toàn cảnh về đồng tiền Việt Nam trong lịch sử, rất cần thiết phải có một công trình nghiên cứu sâu, mang tính tổng hợp, hệ thống hoá toàn bộ tư liệu về lịch sử hình thành và phát triển đồng tiền Việt Nam.

Với nhận thức lịch sử tiền tệ Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong lịch sử văn hoá Việt Nam, gắn liền với lịch sử dân tộc, sự phát hành tiền thể hiện sự phát triển kinh tế - xã hội và nhiệm vụ chính trị của đất nước. Chính vì vậy, trong những năm qua, NHNN Việt Nam đã có sự quan tâm đáng kể trong việc sưu tầm, phổ biến, bảo tồn và phát huy di sản tiền Việt Nam.

Ngày 21/4/2016, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 887/QĐ-NHNN về việc bổ sung nhiệm vụ khoa học công nghệ trọng điểm cấp Bộ năm 2016. Theo đó, NHNN triển khai Dự án nghiên cứu khoa học: “Lịch sử đồng tiền Việt Nam - Quá trình hình thành và phát triển”, Mã số DANH.002/16 do TS. Đào Minh Tú - Phó Thống đốc thường trực NHNN làm chủ nhiệm Dự án. Đơn vị thực hiện Dự án là Văn phòng NHNN.

Dự án “Lịch sử đồng tiền Việt Nam - Quá trình hình thành và phát triển” được đánh giá xếp loại xuất sắc
Quanh cảnh buổi họp

Báo cáo tóm tắt quá trình triển khai dự án, Chủ nhiệm dự án, TS. Đào Minh Tú cho biết, đối tượng nghiên cứu của dự án là các đồng tiền được phát hành và lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam từ thời vua Đinh Tiên Hoàng đến năm 2016. Để có thể hình dung tổng quan nền tài chính - tiền tệ tự chủ của Việt Nam, Nhóm nghiên cứu Dự án phối hợp với các nhà khoa học, các nhà sưu tập tiền tư nhân nhằm làm rõ quá trình hình thành, tồn tại và kết thúc vai trò lịch sử của chúng trong mỗi chính thể đã từng tồn tại trong gần một nghìn năm qua của đồng tiền Việt Nam. Trong đó, các loại hình tiền Việt Nam được sắp xếp theo chất liệu và trình tự lịch sử.

Để triển khai thực hiện Dự án, Phó Thống đốc NHNN - Chủ nhiệm Dự án phân công thành viên thực hiện Dự án nghiên cứu lên tới 22 người bao gồm một số lãnh đạo, cán bộ NHNN và 12 nhà nghiên cứu, sưu tầm tiền tư nhân - những người có kinh nghiệm, kiến thức về tiền tệ với những bộ sưu tập tiền chưa từng được công bố. Căn cứ vào năng lực, kinh nghiệm cũng như thế mạnh nghiên cứu về các loại tiền của các thành viên, Chủ nhiệm Dự án đã phân công thành 5 nhóm soạn thảo theo 5 chuyên đề do các nhà nghiên cứu, nhà sưu tầm tiền làm trưởng nhóm, cụ thể như Chuyên đề 1: Tiền Việt Nam qua các thời kỳ phong kiến (970-1945) do ông Mai Ngọc Phát làm trưởng nhóm; Chuyên đề 2: Tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành (1874-1954) do ông Doãn Khắc Hùng làm trưởng nhóm…

Các nhóm nghiên cứu triển khai tổ chức và đi khảo sát, tiếp cận nguồn tư liệu và các bộ sưu tập tiền của các bảo tàng, các nhà sưu tầm tư nhân tại Hà Nội, TP.HCM, Bắc Ninh, Huế, Quảng Ngãi để hệ thống, lập danh mục các đồng tiền; tiến hành phân loại các đồng tiền theo thời kỳ lịch sử, niên hiệu, chất liệu; scan, dịch thuật các tư liệu nước ngoài (tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng Hán) để có thêm tư liệu nghiên cứu; làm việc với Kho lưu trữ Ngân hàng Trung ương và Trung tâm lưu trữ quốc gia để khai thác, sao chụp các văn bản liên quan đến in, phát hành tiền.

Trên cơ sở danh mục đồng tiền, các thành viên nghiên cứu, nhà sưu tầm tư nhân đã cung cấp các bộ sưu tập của mình, bao gồm cả những bộ sưu tập quý hiếm và cùng cán bộ NHNN scan, chụp ảnh, ghi chép thông tin. Mặc dù bận công việc chuyên môn nhưng các thành viên rất nhiệt tình, trách nhiệm, tạo điều kiện cho cán bộ NHNN đến nhà riêng, hướng dẫn scan, chụp ảnh các bộ sưu tập của mình.

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của Dự án, song song với việc scan, chụp ảnh các đồng tiền, nhóm nghiên cứu đã đo kích thước, trọng lượng, mô tả từng đồng tiền và ghi chép lại thông tin. Trên cơ sở thông tin thu thập được, các cán bộ đã nhập dữ liệu vào máy tính, xây dựng một bộ hồ sơ khoa học cho các đồng tiền. Mỗi đồng tiền, tờ tiền có một lý lịch riêng với 6 thông tin cơ bản như tên Tiền, Mô tả, hình ảnh, niên đại, đặc điểm hiện trạng và lai lịch, đánh mã số. Phần chữ đúc hay in được phiên âm, dịch nghĩa và chú giải. Đến nay, NHNN đã hoàn thành việc chụp ảnh, thu thập thông tin gần 2.000 đồng tiền qua các thời kỳ, xây dựng bộ Phiếu tiền và đang tiếp tục bổ sung.

“Đây là nguồn tài liệu khoa học không chỉ phục vụ Dự án và lưu trữ lâu dài mà còn giúp cho công tác nghiên cứu khoa học và xây dựng Bảo tàng Tiền Việt Nam sau này” - Phó Thống đốc, TS. Đào Minh Tú nhấn mạnh và cho biết thêm, sau khi tổng hợp bản thảo theo chuyên đề và chung, NHNN và nhóm nghiên cứu tổ chức 37 cuộc họp nội bộ từng nhóm và giữa các nhóm để cùng tham gia, đóng góp ý kiến hoàn thiện nội dung bản thảo.

Dự án “Lịch sử đồng tiền Việt Nam - Quá trình hình thành và phát triển” được đánh giá xếp loại xuất sắc
Buổi họp ghi nhận nhiều ý kiến đóng góp

Với tinh thần cầu thị, mong muốn Dự án đạt chất lượng cao, Văn phòng NHNN đã tổ chức 3 Hội thảo tại Hà Nội và 1 Hội thảo tại TP.HCM. Nhóm nghiên cứu đã có những tiếp thu, chỉnh sửa theo ý kiến tham gia góp ý của nhiều nhà khoa học, chuyên gia đến từ cơ quan nghiên cứu về lịch sử, về tiền tệ tại Hà Nội và TP. HCM như: Cục Di sản văn hoá, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia…

Với tinh thần làm việc nghiêm túc, nhiệt tình, trách nhiệm và tâm huyết của các thành viên nghiên cứu, được sự giúp đỡ, ủng hộ của các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành về lịch sử, văn hóa, kinh tế, các nhà sưu tầm đam mê nghiên cứu tiền cổ, các nhà quản lý có bề dày công tác trong Ngành, Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết, qua 3 năm nghiên cứu, Dự án đã hoàn thành bản thảo công phu dày 600 trang với hơn 970 mẫu tiền, gần 2.000 đồng tiền qua các thời kỳ (tương ứng với gần 4.000 hình ảnh). Các bản thảo, bài nghiên cứu công bố về tiền, các bài viết về tiền kim loại, tiền giấy trong 3 số Tập san Vietnam Numismatics của CLB sưu tầm và nghiên cứu đồng tiền Việt Nam. Đặc biệt là các bài viết về hệ thống tiền thưởng bằng kim loại vàng, bạc, đồng; nghệ thuật thư pháp trên tiền cổ triều Lê Sơ...

Nội dung của Báo cáo tổng hợp được chia thành 3 chương: Chương 1: Tiền Việt Nam qua các triều đại phong kiến (968-1945); Chương 2: Tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành (1874-1954); Chương 3: Tiền Việt Nam (1951-2016). Phần Mở đầu, nhóm nghiên cứu trình bày 5 vấn đề: Tiền Việt Nam trong lịch sử; tổng quan tình hình nghiên cứu về đồng tiền Việt Nam của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước; Mục đích và quan điểm nghiên cứu của Dự án; Cách tiếp cận và kỹ thuật, phương pháp; Kết quả đóng góp của Dự án.

Trong 3 chương, nhóm nghiên cứu đưa vào hình ảnh 970 mẫu đồng tiền được sắp xếp theo chất liệu và giai đoạn lịch sử. Phần khảo tả mỗi đồng tiền ở các chương có các thông tin: tên tiền/mệnh giá, chất liệu, kích thước, đặc điểm (mặt trước, mặt sau), hình ảnh minh hoạ, giá trị của đồng tiền và phạm vi lưu hành đương thời. Phần chữ Hán và chữ in bằng tiếng nước ngoài được phiên âm, dịch nghĩa và chú giải.

Theo đánh giá của Hội đồng tư vấn nghiệm thu, Dự án “Lịch sử đồng tiền Việt Nam - Quá trình hình thành và phát triển” là công trình nghiên cứu trọng điểm cấp Ngành, lần đầu tiên được NHNN Việt Nam - một cơ quan của Chính phủ có chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về tiền tệ đứng ra tổ chức nghiên cứu, tập hợp nhiều nhà nghiên cứu, sưu tầm trong nước cùng với những bộ sưu tập hiếm quý chưa từng được công bố. Dự án được tổ chức nghiên cứu một cách khoa học và nghiêm túc, đảm bảo đúng phương pháp, đúng mục đích.

Quan điểm nghiên cứu dự án là sự tham gia, tổng hợp kiến thức hàn lâm, kiến thức nghiên cứu khoa học và kiến thức thực tiễn của các nhà nghiên cứu, các nhà sưu tầm cũng như các nhà quản lý với sự độc lập nghiên cứu, đảm bảo không vi phạm về bản quyền và có tính kế thừa, công khai và có nguồn chính thống. Đây là ấn phẩm, công trình nghiên cứu đầu tiên tổng hợp tất cả các loại tiền Việt Nam đã được phát hành trên lãnh thổ Việt Nam từ trước đến nay nên giá trị từ ý tưởng đến thực tiễn là rất lớn.

Các thành viên Hội đồng tư vấn đều bày tỏ ấn tượng về kết quả dự án và cho rằng công trình đồ sộ này có ý nghĩa khoa học và thực tiễn lớn không chỉ đối với ngành Ngân hàng mà còn là cơ sở hình thành bản thảo cuốn sách Lịch sử đồng tiền Việt Nam - nguồn tài liệu có tính giáo khoa, góp phần tuyên truyền, quảng bá các giá trị lịch sử, văn hoá, kinh tế về tiền tệ Việt Nam.

Dự án hoàn thành sẽ có ý nghĩa vô cùng to lớn cả về lý luận và thực tiễn đối với cộng đồng, với các nhà nghiên cứu, các nhà sưu tầm cũng như mọi người quan tâm đến tiền Việt Nam ở trong và ngoài nước. Nguồn tài liệu này sẽ góp phần xây dựng nội dung cho Bảo tàng tiền Việt Nam trong tương lai.

Với những kết quả mà nhóm nghiên cứu Dự án đạt được, trên cơ sở tổng hợp kết quả đánh giá của các thành viên trong Hội đồng, Dự án nghiên cứu khoa học: “Lịch sử đồng tiền Việt Nam - Quá trình hình thành và phát triển” được đánh giá xếp loại xuất sắc.

PV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Trong kỳ phát hành này, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in các mệnh giá của kỳ 3 nhưng thay đổi chữ ký, đồng thời bổ sung hai mệnh giá mới là 20 piastres và 500 piastres. Các tờ tiền 1, 5 và 100 piastres có hình thức, màu sắc và bố cục tương tự các kỳ trước, chỉ khác chữ ký. Riêng tờ 20 piastres và 500 piastres có thiết kế nổi bật với khung nền “BANQUE DE L’INDOCHINE”, hình Marianne, Angkor Wat, quả địa cầu và voi, phát hành lưu hành trên toàn Đông Dương.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Từ năm 1923 đến năm 1939, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành bốn kỳ với 8 loại mệnh giá là 1 piastre (có 2 loại), 5 piastres (có 2 loại), 20 piastres (có 2 loại), 100 piastres (1 loại) và 500 piastres (1 loại). Trong các kỳ phát hành này, tên ngân hàng phát hành là: “Banque de L’Indo-chine” (bỏ gạch nối ở giữa thành “L’Indochine”). Mặt sau có ba thứ chữ là Hán, Việt, Miên (Campuchia).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Nghị định 06/10/1919, phát hành tiền giấy mệnh giá nhỏ gồm 10 cents xanh, 20 cents nâu và 50 cents đỏ. Tờ 20 cents có hai loại: có và không ghi tên nhà in Chaix.Paris. Chúng được phát hành cùng thời điểm tiền xu bạc bị giảm hàm lượng từ 83,5% xuống 40%. Đến năm 1921, Sắc lệnh 02/3/1921 yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ các loại tiền này. Giai đoạn 1922–1924, khoảng 94% đã được thu hồi, chỉ còn 6% lưu thông. Tổng phát hành gồm 1 triệu tờ 10 cents, 6 triệu tờ 20 cents và 3,7 triệu tờ 50 cents.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Từ năm 1909 đến 1925, Ngân hàng Đông Dương phát hành tại Sài Gòn và Hải Phòng các loại giấy bạc Đông Dương mệnh giá 5, 20 và 100 piastres trong bốn đợt. Đợt năm 1909 có hai mệnh giá 5 và 20 piastres, mang đậm nét văn hóa “mẫu quốc” Pháp, tiêu biểu là hình Marianne – biểu tượng nước Pháp – ngồi uy nghi trên tờ 20 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.