Gỡ cơ chế cho dự án IPP: Cần sự gắn kết chặt chẽ
Bộ Công Thương hướng dẫn ưu đãi phát triển điện mặt trời mái nhà |
Nhà máy điện mặt trời Sao Mai tại huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang |
Điều đáng ghi nhận là nếu trong giai đoạn đầu, các dự án điện đều do các doanh nghiệp nhà nước xây dựng và vận hành, thì nay quy mô và tỷ trọng của các nhà đầu tư tư nhân đã ngày càng lớn. Cụ thể, tính đến cuối năm 2019, trong cơ cấu nguồn điện cả nước đã có 19.253 MW thuộc khối tư nhân (bao gồm cả các nhà máy điện thuộc các dự án điện độc lập - IPP và hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao - BOT), chiếm tới 34,4%.
Ông Hoàng Quốc Vượng, Thứ trưởng Bộ Công thương - Phó trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển điện lực cho biết, dự báo giai đoạn 2020 - 2030 nhu cầu điện sẽ tăng bình quân khoảng 7,5-8%/năm. Theo kết quả sơ bộ của Báo cáo Quy hoạch điện VIII do Viện Năng lượng nghiên cứu, dự báo nhu cầu sản xuất điện ở kịch bản cơ sở đến năm 2030 khoảng trên 526 tỷ kWh, tương ứng công suất đặt nguồn điện toàn hệ thống là 131.000 MW. Từ nay đến năm 2030 sẽ cần xây dựng thêm 75.100 MW nguồn điện (trung bình 7.500 MW/năm), với nhu cầu vốn khoảng 7-8 tỷ USD/năm.
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo quốc gia về phát triển điện lực, tính đến hết tháng 8/2020, các dự án IPP do các nhà đầu tư tư nhân đưa vào vận hành có tổng công suất 16.400 MW, chiếm khoảng 28,3% công suất lắp đặt toàn hệ thống. Trên thực tế, nhiều dự án với công suất lớn có trong Quy hoạch Điện VII hiệu chỉnh hoặc đã được bổ sung quy hoạch đang bị chậm tiến độ. Nhiều dự án chưa thể xác định được thời gian vận hành, làm ảnh hưởng đến việc đảm bảo cung cấp điện cho hệ thống, an ninh năng lượng quốc gia.
Đặc biệt là sự bùng nổ của các dự án điện mặt trời, điện gió, phần lớn thuộc về các chủ đầu tư tư nhân với tổng công suất lên tới 5.700 MW (chiếm khoảng 10% công suất nguồn điện) và đây là nỗ lực của nhà nước trong huy động mọi nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh điện, đang đi đúng hướng.
Chủ trương về huy động khối tư nhân tham gia ngành năng lượng càng được củng cố tại Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị về quan điểm định hướng chiến lược, cũng như nhiệm vụ phát triển năng lượng Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 là: “Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân tham gia phát triển năng lượng”, đã thu hút sự quan tâm ngày càng lớn của các nhà đầu tư tư nhân.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, đã xuất hiện những khó khăn, vướng mắc như hạ tầng hệ thống lưới điện chưa sẵn sàng tiếp nhận và truyền tải với quy mô lớn trong thời gian ngắn. Sự thiếu đồng bộ, phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước và chính quyền địa phương trong công tác hỗ trợ nhà đầu tư (đền bù đất đai, giải tỏa mặt bằng…). Bên cạnh đó là tác động lớn của dịch bệnh Covid-19 đến triển khai đầu tư, xây dựng dự án… Các khó khăn thách thức đó đang tác động, ảnh hưởng và làm suy giảm cơ hội huy động nguồn lực đầu tư.
Một trong những vướng mắc lớn hiện nay là việc thu xếp vốn, tài chính, bởi các dự án đầu tư kinh doanh trong ngành điện lực/năng lượng thuộc loại cần vốn đầu tư lớn, triển khai dài và thời gian thu hồi vốn chậm hơn nhiều ngành nghề khác. Các nhà đầu tư trong lĩnh vực này thường phải là những doanh nghiệp giàu kinh nghiệm, có tiềm lực tài chính mạnh.
Ông Dương Quang Thành – Chủ tịch HĐTV EVN cho rằng, cần phải có chính sách giá điện đồng bộ, phù hợp cả đầu vào và đầu ra, để thu hút đầu tư bên ngoài ngành điện trong thời gian tới. Hiện đã có hơn 100 nhà đầu tư điện mặt trời triển khai các dự án mà không cần bảo lãnh của Chính phủ. Mấu chốt chính là mức giá điện ưu đãi rất hấp dẫn: 9,35 UScent/kWh.
Theo ông Ngô Quốc Hội, Tổng Giám đốc Công ty CP Nhiệt điện An Khánh (Bắc Giang), với dự án có nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng thì lại vô cùng khó khăn khi Chính phủ hiện đã tạm dừng chủ trương bảo lãnh đối với các dự án điện. Trong khi theo quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp bị giới hạn bởi các quy định cho vay đối với một dự án không quá 15% và đối với nhóm khách hàng có liên quan không quá 25% vốn tự có của các ngân hàng. Với quy định như vậy, với nhu cầu vốn vay của các dự án nhà máy điện nói chung, thì việc vay vốn từ các ngân hàng trong nước là rất khó khăn và không khả thi.
Thêm nữa, theo Quy hoạch điện VII, có hai loại dự án: BOT và IPP. Với các dự án BOT có những cơ chế chính sách ưu đãi có lợi cho nhà đầu tư hơn, như: bao tiêu sản lượng Qc cả đời dự án; điều kiện nhận trả; được bảo đảm chuyển đổi ngoại tệ. Trong khi đối với các dự án IPP lại không có được các thuận lợi như vậy.
Từ thực trạng trên, nhằm tháo gỡ khó khăn trong việc thu xếp vốn vay cho các dự án IPP, ông Ngô Quốc Hội đề nghị Chính phủ, Bộ Công thương điều chỉnh giá điện cho EVN tăng cường năng lực cạnh tranh. Đồng thời, cho phép các dự án trong Quy hoạch điện VII hiện tại và Quy hoạch điện VIII được phép vay vốn tại ngân hàng trong nước vượt trần.
Nếu phát huy được lợi thế của các nhà đầu tư IPP, các nguồn điện sẽ rộng đường phát triển trong tương lai. Điều này cần sự vào cuộc của các bộ, ngành để hoàn thiện hành lang pháp lý phù hợp với định hướng phát triển ngành điện. Đồng thời, sớm hoàn thiện cơ chế giá cạnh tranh với năng lượng nói chung và năng lượng tái tạo nói riêng, để không chỉ ngân hàng có cơ sở khi xem xét quyết định tài trợ. Song song với đó, cần ban hành cơ chế ưu đãi thuế, phí cho các nhà đầu tư; nghiên cứu ban hành các hướng dẫn cụ thể, thông tin hỗ trợ cho cả doanh nghiệp và ngân hàng.
Các nhà quản lý và các chuyên gia đều nhất trí rằng, việc hoàn thiện các văn bản hướng dẫn, đề xuất cơ chế, chính sách cho các nhà đầu tư IPP phát triển nguồn điện tại Việt Nam chẳng những góp phần thúc đẩy phát triển các dự án IPP, mà quan trọng hơn đó còn là tạo điều kiện cho dự án hoàn thành đúng tiến độ, đáp ứng nhu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đó và góp phần ổn định an ninh năng lượng quốc gia.