Không thể loại trừ khả năng suy thoái toàn cầu

08:13 | 08/07/2022

Giám đốc điều hành Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Kristalina Georgieva vừa cho biết, triển vọng kinh tế toàn cầu đã "tối tăm đáng kể" kể từ tháng 4 và không thể loại trừ khả năng suy thoái toàn cầu vào năm tới.

Nói với hãng tin Reuters, bà Georgieva cho biết tổ chức này sẽ có lần thứ ba “hạ cấp” dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu cho năm nay, đồng thời cho biết các nhà kinh tế của IMF vẫn đang hoàn thiện các con số mới. IMF dự kiến sẽ công bố dự báo cập nhật cho năm 2022 và 2023 vào cuối tháng này. Theo báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu của IMF vào tháng 10/2021, dự kiến tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2022 đạt 4,9%. Sau đó trong các lần cập nhật vào tháng 1/2022 và tháng 4/2022, con số này lần lượt được điều chỉnh xuống mức 4,4% và 3,6%.

khong the loai tru kha nang suy thoai toan cau
Ảnh minh họa

"Triển vọng kể từ lần cập nhật cuối cùng của chúng tôi vào tháng 4 đã xấu đi đáng kể", bà Kristalina Georgieva nói với Reuters, với viện dẫn lạm phát đang lan rộng hơn, lãi suất tăng “đáng kể” hơn, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chậm lại và tác động của các lệnh trừng phạt leo thang liên quan đến cuộc xung đột Nga - Ukraine.

“Chúng ta đang ở trong những vùng nước rất lạnh”, bà nói và cho biết: "Rủi ro đã tăng lên nên chúng tôi không thể loại trừ khả năng này", khi được hỏi liệu có thể loại trừ khả năng sẽ diễn một cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu hay không. Dữ liệu kinh tế gần đây cho thấy một số nền kinh tế lớn đã rơi vào suy giảm trong quý II và rủi ro thậm chí sẽ còn cao hơn vào năm 2023. "2022 là một năm khó khăn, nhưng thậm chí năm 2023 còn khó khăn hơn. Rủi ro suy thoái đang tăng lên vào năm tới", Giám đốc điều hành IMF nhận định.

Các nhà đầu tư ngày càng lo ngại về rủi ro suy thoái và một chỉ báo đáng tin cậy cho thấy khả năng suy thoái đang xuất hiện là việc đường cong lợi suất trái phiếu Kho bạc Hoa Kỳ bị đảo ngược trong ngày thứ hai liên tiếp vào thứ Tư vừa qua. Kết thúc cuộc họp chính sách tháng 6, Chủ tịch Fed Jerome Powell cho biết NHTW Hoa Kỳ không cố gắng tạo ra một cuộc suy thoái, nhưng nhấn mạnh Fed sẽ làm bất cứ điều gì để kiềm chế các đợt tăng giá trong tương lai ngay cả khi điều đó có thể “gây rủi ro” cho tăng trưởng.

Bà Georgieva cho rằng, việc thắt chặt các điều kiện tài chính trong thời gian dài hơn sẽ làm “phức tạp” triển vọng kinh tế toàn cầu, nhưng cũng thừa nhận điều quan trọng là phải kiểm soát được giá cả tăng vọt. “Tăng trưởng kinh tế chậm lại có thể là "cái giá cần thiết phải trả" trong bối cảnh nhu cầu cấp bách và bức thiết để khôi phục sự ổn định giá cả”, bà nói.

Người đứng đầu IMF cũng nhận định, triển vọng toàn cầu hiện nay đang thiếu đồng nhất hơn so với 2 năm trước đây, trong đó với các nhà xuất khẩu năng lượng (bao gồm Hoa Kỳ) sẽ có lợi hơn, trong khi các nước nhập khẩu đang gặp khó khăn hơn. Cùng với đó, bà Georgieva kêu gọi các quốc gia cần cân nhắc cẩn trọng các hành động để ngăn chặn bất kỳ nguy cơ hỗ trợ tài khóa nào có thể làm suy yếu nỗ lực kiểm soát lạm phát của các NHTW. “Chúng ta cần tạo ra mức độ phối hợp mạnh mẽ như nhau giữa các NHTW và Bộ tài chính để họ cung cấp hỗ trợ một cách có mục tiêu... và không làm suy yếu những gì các chính sách tiền tệ đang hướng tới”, bà nói.

Đỗ Phạm

Nguồn:

Thông tin chứng khoán

Cập nhật ảnh...
Nguồn : stockbiz.vn
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
1,00
1,00
1,00
5,50
5,60
5,70
6,70
6,90
7,10
7,80
Sacombank
-
-
-
-
5,50
5,60
5,70
7,50
7,70
7,90
8,30
Techcombank
0,30
-
-
-
5,90
5,90
5,90
7,70
7,70
7,70
7,70
LienVietPostBank
-
0,10
0,10
0,10
6,00
6,00
6,00
7,60
7,60
8,00
8,50
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
6,00
6,00
6,00
8,55
8,60
8,65
9,20
Agribank
0,50
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Eximbank
0,20
1,00
1,00
1,00
5,60
5,70
5,80
6,30
6,60
7,10
7,50
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23.310 23.680 24.662 26.042 27.702 28.883 175,33 185,62
BIDV 23.350 23.650 24.859 26.062 27.830 28.912 173.60 182.70
VietinBank 23.305 23.665 24.488 26.123 28.168 29.178 176,97 184,92
Agribank 23.300 23.660 24.910 26.057 27.948 28.857 177,53 185,26
Eximbank 23.270 23.650 24.970 25.647 28.029 28.789 177,36 182,17
ACB 23.350 23.800 25.009 25.606 28.028 28.765 177,51 181,93
Sacombank 23.315 23.700 25.080 25.687 28.247 28.862 177,80 183,35
Techcombank 23.325 23.675 24.760 26.090 27.766 29.067 173,38 185,81
LienVietPostBank 23.390 24.010 24.880 26.235 28.154 29.108 176,00 187,77
DongA Bank 23.360 23.680 24.980 25.620 28.050 28.760 176,5 182,10
(Cập nhật trong ngày)

Giá vàng Xem chi tiết

Khu vực
Mua vào
Bán ra
HÀ NỘI
Vàng SJC 1L
66.550
67.270
TP.HỒ CHÍ MINH
Vàng SJC 1L
66.550
67.250
Vàng SJC 5c
66.550
67.270
Vàng nhẫn 9999
54.900
55.900
Vàng nữ trang 9999
54.750
55.500