Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm
Tăng trưởng kinh tế ước đạt khoảng 8%
Sau khi phân tích những tác động của tình hình thế giới và trong nước, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn từ đầu năm nhưng với quyết tâm của toàn hệ thống chính trị, nhờ chúng ta đã kịp thời ban hành, tập trung thực hiện quyết liệt, có hiệu quả Chương trình phòng, chống dịch COVID-19 (năm 2022-2023), bám sát quan điểm thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19, qua đó dịch bệnh được kiểm soát, tỷ lệ chuyển nặng, tử vong rất thấp so với các nước (theo xếp hạng tháng 8/2022 của của tổ chức Nikkei Asia, Việt Nam xếp thứ 2 thế giới về phục hồi sau dịch), tạo điều kiện để hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống người dân trở lại trạng thái bình thường mới, góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 đã đạt được nhiều kết quả nổi bật. Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu cả năm dự kiến đạt và vượt 14/15 chỉ tiêu so với kế hoạch Quốc hội giao. Trong đó, tăng trưởng kinh tế ước đạt khoảng 8%, vượt mục tiêu đề ra (6-6,5%), tạo đà quan trọng cho các năm tiếp theo thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của kế hoạch 5 năm 2021-2025. Thu ngân sách nhà nước ước cả năm vượt 14,3% so với dự toán, tạo dư địa trong điều hành tài khóa để hỗ trợ tăng trưởng, ổn định và nâng cao đời sống người dân.
Thị trường tiền tệ cơ bản ổn định, mặt bằng lãi suất, tỷ giá, hạn mức tăng trưởng tín dụng được điều hành phù hợp, hướng tín dụng vào các ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên. Kim ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 368 tỷ USD, tăng khoảng 9,5%. Vốn FDI thực hiện ước đạt 21-22 tỷ USD, tăng khoảng 6,4-11,5%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội cả năm ước tăng 10,7%, là động lực để nền kinh tế đẩy nhanh việc mở rộng năng lực sản xuất trong thời gian tới. Công tác điều hành giá, nhất là đối với các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là xăng, dầu, sách giáo khoa được quan tâm, chỉ đạo quyết liệt, sát sao, hiệu quả. Các khu vực kinh tế tăng trưởng tốt so với năm 2021. Cân đối điện, xăng dầu, lương thực được bảo đảm.
Chúng ta cũng cơ bản hoàn thành khuôn khổ pháp lý để triển khai, thực hiện các chính sách của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, 3 Chương trình mục tiêu quốc gia. Nhiều dự án đầu tư quan trọng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại đã được triển khai quyết liệt; đã đưa vào sử dụng một số dự án cơ sở hạ tầng quan trọng; nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; tăng cường công tác quản lý, thanh tra giám sát, phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững…
Vẫn nhiều tồn tại, thách thức
Bên cạnh những kết quả đạt được, Chính phủ cũng thẳng thắn cho rằng vẫn còn những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức. Cụ thể, còn 1/15 chỉ tiêu dự kiến không đạt là tốc độ tăng năng suất lao động xã hội, ước tăng khoảng 5,2% (mục tiêu đề ra là 5,5%). Hoạt động sản xuất, kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu do giá xăng dầu, nguyên liệu, vật tư đầu vào, chi phí sản xuất cao. Xuất hiện tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ trong một số ngành, lĩnh vực tại một số địa phương là trung tâm công nghiệp trọng điểm; áp lực lớn lạm phát từ bên ngoài; nghỉ việc trong khu vực công có xu hướng gia tăng. Các thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản còn tiềm ẩn rủi ro.
Giải ngân vốn đầu tư công tiếp tục là điểm nghẽn, chưa đạt kết quả như mong đợi. Thực hiện một số chính sách thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội còn chậm. Thu hút FDI đầu tư mới, thu hút công nghệ cao, công nghệ nguồn và chuyển giao công nghệ gặp nhiều khó khăn; liên kết giữa khu vực FDI và kinh tế trong nước còn hạn chế. Số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường còn cao. Xuất khẩu gặp thách thức không nhỏ khi các thị trường lớn, truyền thống đang dần bị thu hẹp (Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc…).
Đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn, công tác an sinh xã hội, giảm nghèo còn gặp nhiều thách thức. Tình trạng thiên tai, bão lũ diễn biến trái quy luật cũng ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, sản xuất, kinh doanh. Phát triển văn hóa chưa tương xứng với phát triển kinh tế, chưa trở thành một động lực để đất nước phát triển bền vững.
Nêu 12 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trong những tháng cuối năm để phấn đấu đạt kết quả cao nhất các mục tiêu đề ra, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh cần tập trung tiếp tục triển khai đồng bộ, hiệu quả Chương trình phòng chống dịch COVID-19. Dự báo, theo dõi chặt chẽ diễn biến chính sách của các nước lớn, là đối tác thương mại, đầu tư chủ yếu của Việt Nam; chủ động trong công tác tham mưu, chỉ đạo, điều hành; có giải pháp về nguồn hàng, điều tiết sản xuất, bảo đảm cung ứng cho sản xuất, đời sống, nhất là các mặt hàng thiết yếu, điện, xăng, dầu.
Thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, chắc chắn, bảo đảm tính chủ động, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, hài hòa với điều hành chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm; bảo đảm hiệu quả và các chính sách khác để ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với diễn biến lạm phát và thị trường trong, ngoài nước, mục tiêu chính sách tiền tệ.
Thúc đẩy tăng thu ngân sách nhà nước; kiểm soát chi chặt chẽ, tiết kiệm triệt để các khoản chi thường xuyên, chi sự nghiệp có tính chất đầu tư; triển khai quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, 3 Chương trình mục tiêu quốc gia.
Các bộ, ngành, địa phương khẩn trương rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách theo tinh thần vướng mắc ở cấp, ngành nào thì cấp, ngành đó chủ động sửa đổi, hoàn thiện. Kịp thời tổng hợp, báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với những vấn đề vượt thẩm quyền để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước…
Năm 2023 tiếp tục ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô
Dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, mục tiêu chính là tiếp tục ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 và các dịch bệnh mới phát sinh. Đẩy mạnh cơ cấu lại, nâng cao năng lực nội tại, tính tự chủ, khả năng chống chịu và thích ứng của nền kinh tế; củng cố, phát triển các động lực tăng trưởng mới.
Quyết liệt và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các đột phá chiến lược, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, 3 Chương trình mục tiêu quốc gia. Tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật; nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành và thực thi pháp luật; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
Năm 2023, Chính phủ cũng đưa ra 15 chỉ tiêu chủ yếu về các lĩnh vực kinh tế - xã hội, môi trường. Trong đó, tăng trưởng GDP khoảng 6,5%; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.400 USD; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 25,4-25,8%; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4,5%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân 5-6%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 68%, trong đó có bằng, chứng chỉ đạt khoảng 27,5%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm 1-1,5%...
Để đạt các mục tiêu này, Chính phủ sẽ tập trung vào 8 trọng tâm trong chỉ đạo, điều hành. Cụ thể là giữ vững thành quả phòng, chống dịch COVID-19. Theo dõi chặt chẽ tình hình dịch bệnh thế giới, có phương án ứng phó hiệu quả với các tình huống dịch bệnh có thể xảy ra.
Tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, chắc chắn, bảo đảm tính chủ động, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, hài hòa với điều hành chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm hiệu quả và các chính sách khác, khai thác dư địa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ để ứng phó kịp thời với biến động của tình hình thế giới, trong nước. Duy trì ổn định thị trường tài chính, tiền tệ; kiểm soát các lĩnh vực đang tiềm ẩn nhiều rủi ro như thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản. Triển khai quyết liệt, hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, 3 Chương trình mục tiêu quốc gia.
Chú trọng công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển. Bảo đảm tiến độ, chất lượng các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết, nhất là các dự án có vai trò quan trọng để cơ bản xử lý các vướng mắc, khó khăn và tạo lập môi trường thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh. Khắc phục vướng mắc, bất cập, tạo điều kiện phát triển các loại thị trường đồng bộ, lành mạnh, bền vững, nhất là thị trường bất động sản, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, lao động, khoa học công nghệ…
Tiếp tục thực hiện thực chất, hiệu quả cơ cấu lại nền kinh tế; nâng cao hiệu quả huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực; đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đẩy mạnh kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Có giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công ngay từ đầu năm 2023. Ưu tiên bố trí vốn cho dự án quan trọng quốc gia, chương trình, dự án phát triển hạ tầng trọng điểm có sức lan tỏa, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, tạo đột phá thu hút nguồn vốn khu vực tư nhân trong và ngoài nước và bảo đảm phát triển hài hòa giữa các địa phương, từng vùng lãnh thổ.