Kỳ vọng Chương trình phục hồi kinh tế
Cấp thiết nhưng cần tính toán kỹ càng
“Người dân thu nhập giảm, tiêu dùng yếu; doanh nghiệp, theo tính toán của chúng tôi đang có hệ số 1:1, tức là một doanh nghiệp thành lập mới thì lại có một “ra đi”; bên cạnh đó là những sang chấn tác động về tâm lý, rủi ro từ bên ngoài… Chỉ chừng đó cho thấy việc phải có Chương trình phục hồi là rất cấp thiết”, TS. Cấn Văn Lực - Kinh tế trưởng BIDV cho biết.
Đây cũng là quan điểm chung của hầu hết các chuyên gia, tổ chức khi nói đến Chương trình phục hồi kinh tế. TS. Võ Trí Thành - nguyên Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, chương trình phục hồi cần có quy mô đủ lớn; diện đủ rộng, nhưng có trọng điểm; thời gian đủ dài và trong thực thi cần sự đồng hành vào cuộc của Quốc hội, Chính phủ (nhất là trong cải thiện, tháo gỡ các nút thắt pháp lý trong thực hiện chương trình) và đặc biệt là sự triển khai nhất quán của các bộ, ngành, địa phương.
Gói kích thích kinh tế cần gắn với các dự án cụ thể và giải quyết các vấn đề cấp bách |
Các chuyên gia cho rằng, chương trình phục hồi cần rõ về mục tiêu và gắn kết trong tổng thể chung (kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm; kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025; chương trình phòng chống dịch…) và công tác kiểm tra, giám sát, quản lý hiệu quả của chương trình. Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng cho rằng, sẽ rất khó để có được một chương trình phục hồi hiệu quả nếu chưa thực rõ hiện trạng nền kinh tế đang như thế nào. “Cần có một đánh giá đầy đủ, sát hơn về thực trạng, nhất là tác động của đại dịch trong đợt dịch lần thứ 4 này đối với DN, lao động, các lĩnh vực ngành nghề. Bên cạnh đó, cần làm rõ về mục tiêu, đối tượng của chương trình để có những hỗ trợ đảm bảo khả thi, hiệu quả”, TS. Lực đề xuất.
Về nguồn lực, TS. Võ Trí Thành cho rằng, có thể thông qua nhiều giải pháp như giảm thuế VAT, hỗ trợ lãi suất, chấp nhận tăng bội chi ngân sách… “Giả sử chấp nhận bội chi ngân sách tăng 2% (từ 4% lên 6%/năm) thì trong 2 năm sẽ có khoảng 7 tỷ USD cho chương trình. Nguồn này có thể đến từ vay trong nước, vay các tổ chức quốc tế, tiết kiệm chi thường xuyên…”, ông Thành đề xuất. Cùng quan điểm trên, TS. Lực bổ sung, nguồn lực còn có thể đến từ thoái vốn và tái cơ cấu các DNNN (đây là một trong những trọng tâm tái cơ cấu thời gian tới và chỉ riêng nguồn này theo tính toán mỗi năm có thể mang về khoảng 40 nghìn tỷ nếu làm quyết liệt); cải cách thủ tục hành chính như liên quan đến đất đai, các dự án bất động sản; các quỹ ngoài ngân sách; nguồn lực từ khối tư nhân, đặc biệt là làm sao triển khai thực hiện được luật PPP đã có…
Tính phù hợp, hiệu quả phải đặt lên hàng đầu
Bên cạnh đó, các chuyên gia, đại biểu Quốc hội cũng lưu ý chương trình cần đặc biệt tránh những hệ lụy kéo dài như gói kích thích giai đoạn 2009. Những quan tâm, lưu ý của các chuyên gia, đại biểu Quốc hội như vậy phần nào đã được giải đáp khi Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, chương trình này sẽ có quy mô đủ lớn; thời gian thực hiện phù hợp (2022-2023) trên cơ sở bảo đảm được ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế; đảm bảo đồng bộ giữa các chính sách; các hỗ trợ sẽ tập trung cho cả phía cung và phía cầu của nền kinh tế; thực hiện chương trình trên cơ sở gắn kết, lồng ghép vào các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch tài chính công và cơ cấu lại nền kinh tế trong các năm tới.
Các định hướng hỗ trợ như trên không chỉ căn cứ vào nhu cầu và thực tế ảnh hưởng của đại dịch tới nền kinh tế mà cũng trên cơ sở các bài học kinh nghiệm từ những hạn chế, bất cập của gói kích thích kinh tế năm 2008-2009 khi chính sách chỉ chủ yếu hỗ trợ về phía cung; các chính sách hỗ trợ chưa sát thực tiễn; điều kiện cho vay vốn chưa được công khai, minh bạch; thiếu đồng bộ giữa các chính sách và đặc biệt là khâu quản lý, giám sát thiếu chặt chẽ.
Cho ý kiến về chương trình này tại kỳ họp Quốc hội vừa qua, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh, chương trình phải được thiết kế trên cơ sở đánh giá sâu sắc toàn diện những tác động của đại dịch Covid-19, các xu hướng đầu tư kinh doanh sau đại dịch, tình hình kinh tế của khu vực và thế giới, dựa vào những kinh nghiệm mà đã có được trong gói kích thích kinh tế khi khủng hoảng kinh tế xảy ra vào năm 2008-2009.
“Khẩn trương xây dựng, sớm trình Quốc hội xem xét, quyết định để tổ chức thực hiện quyết liệt chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội với các giải pháp, cơ chế đột phá, có trọng tâm, trọng điểm, khả thi, hiệu quả, chú trọng việc tạo động lực tăng trưởng mới phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế thế giới hiện nay. Sử dụng linh hoạt, phối hợp chặt chẽ các công cụ tiền tệ, tài khóa để giữ vững kinh tế vĩ mô, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, kinh tế - xã hội phục hồi”, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ yêu cầu.
Đặc biệt, quan tâm đến tính khả thi và hiệu quả, TS. Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Vietnam nhấn mạnh: “Điều quan trọng là phải xem hiện trạng nền kinh tế Việt Nam đang thế nào; những dư địa nào chúng ta vẫn còn chưa sử dụng đến hay chưa sử dụng hết; khả năng hấp thụ, truyền tải vốn ra sao; dùng cho đối tượng, dự án nào và hiệu quả kinh tế, xã hội sẽ ra sao; Năng lực quản lý, thực hiện hiệu quả gói kích thích đến đâu? Đó mới là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhất cần giải đáp, hơn là quy mô của gói kích thích là bao nhiêu”.
Từ những băn khoăn đó chuyên gia này cho rằng, nên thực tiễn khi thiết kế và đề xuất ra quy mô của gói kích thích. Như vậy sẽ phù hợp hơn là việc cứ đưa ra một con số rất lớn song không phù hợp với khả năng quản lý, thực hiện và giải ngân. Đặc biệt, gói kích cầu đó cần gắn với các dự án cụ thể và giải quyết các vấn đề cấp bách, có tác động lan tỏa lớn, có khả năng tạo không gian mới cho phát triển kinh tế, giúp giải quyết những điểm nghẽn của nền kinh tế, hay các vấn đề cấp bách về an sinh, xã hội mà chưa nằm trong kế hoạch ngân sách hiện tại hay trong kỳ đầu tư trung hạn sắp tới.