Năm Thìn nói chuyện “đất chín rồng”
Tìm về nguồn gốc tên gọi Cửu Long
Với nhiều người đam mê ca hát, chắc hẳn đã hơn một lần cất lên những lời ca hào hùng của nhạc phẩm “Tiểu đoàn 307” do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Trí phổ thơ Nguyễn Bính, với câu mở đầu: “Ai đã từng đi qua Cửu Long Giang/Cửu Long Giang sông trào nước xoáy”…
Thế nhưng, nếu đặt câu hỏi: Ai đã đặt tên cho con sông Cửu Long và người ta đã bắt đầu gọi gần 230 kilomet hạ lưu của sông Mekong là sông “chín rồng” từ khi nào thì không chắc nhiều người biết được.
Tìm về những ghi chép trong các sách địa lý và chính sử, chúng ta có thể thấy ngay tên gọi quốc tế của sông Cửu Long là sông Mekong. Đây là con sông lớn thứ 12 trên thế giới, phát nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, dài hơn 4.900 kilomet, chảy qua lãnh thổ sáu nước là Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam.
Những đô thị bao bọc xung quanh các nhánh sông Cửu Long là nét đặc trưng của vùng Tây Nam bộ (TP. Ngã Bảy tỉnh Hậu Giang nhìn từ trên cao) |
Đoạn chảy qua Việt Nam của sông Mekong tách thành hai nhánh chính là sông Tiền và sông Hậu (gọi chung là sông Cửu Long) dài khoảng gần 230 kilomet, đổ ra biển Đông với 9 cửa là: cửa Đại, cửa Tiểu, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên, cửa Cung Hầu, của Ba Lai, cửa Định An, cửa Ba Thắc và cửa Trần Đề.
Các tài liệu chính sử sớm nhất còn lưu giữ đến ngày nay ghi chép và giải thích khá khiêm tốn về tên gọi sông Cửu Long.
Theo nhà nghiên cứu văn hóa - lịch sử Võ Hương An, có lẽ Trịnh Hoài Đức (1765-1825) là người đầu tiên ở Việt Nam nhắc đến tên gọi sông Cửu Long. Theo đó, trong bộ sách nổi tiếng “Gia Định Thành thông chí”, đoạn nói về sông Mỹ Tho, ông viết: “Sông Mỹ Tho [tức Tiền Giang], ở trước trấn, làm sông cái của trấn, phát nguồn từ sông Cửu Long tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, chảy nhanh cuồn cuộn, từ bắc mà sang tây, trải qua các nước Lào, tới sông Nam Vang nước Cao Mên, chia làm hai sông Tiền Giang và Hậu Giang mà chảy xuống phía đông”.
Sau Trịnh Hoài Đức, các sử gia triều Nguyễn cũng nhắc đến sông Cửu Long ở một số tài liệu chính sử. Chẳng hạn, trong “Đại Nam Nhất Thống chí” có đoạn viết: “Miền tây Nam kỳ thì có sông Tiền Giang và sông Hậu Giang là lớn nhất, tức là hạ lưu của sông Lan Thương bắt nguồn từ Thanh Hải (Trung Quốc) qua phủ Lệ Giang tỉnh Vân Nam, qua các phủ Đại Lí, Thuận Ninh, đến phủ Phổ Nhĩ, có sông Phổ Nhĩ đến từ phía đông chảy vào làm sông Cửu Long…”.
Ông Võ Hương An cho rằng, nhiều khả năng tên gọi Cửu Long Giang là sản phẩm văn hóa của lưu dân Việt - Minh Hương trên bước đường định cư khai phá vùng đồng bằng châu thổ phía Nam, lấy ý từ 9 cửa sông ví như 9 đầu rồng tuôn nước ra biển Đông. Tên gọi này, theo ông An có thể xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII, giai đoạn Việt Nam đắc thủ các địa bàn Vĩnh Long, An Giang ngày nay.
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu ngôn ngữ Phạm Đức Dương (1930-2013) cho rằng, xét trên khía cạnh từ nguyên học, tên gọi Cửu Long có thể không liên quan gì đến “chín rồng” mà do quá trình phiên âm Hán Việt từ “Kroong” trong ngữ hệ Nam Á. Theo đó, ở các khu vực từ miền Nam Trung Quốc đổ xuống các nước Đông Nam Á, hầu hết các dân tộc đều dùng những từ như: Slong, Klong, Kroong để chỉ khái niệm sông. Theo thời gian và quá trình biến âm, các từ này được phiên âm Latinh và Hán Việt thành Mekong và Cửu Long như hiện nay.
Lễ hội diễn ra trên các nhánh sông Cửu Long hàng năm thu hút hàng triệu người dân và du khách tham quan (Đua ghe ngo tại Lễ hội Ok Om Bok Sóc Trăng 2023) |
Xứng danh “đất chín rồng”
Mặc dù hiểu theo cách giải thích nào thì những tên gọi sông Cửu Long, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cho đến ngày nay đã quá đỗi quen thuộc và gần gũi với người dân Việt Nam khi nói về vùng đất phía Nam tổ quốc.
Dù trong số 9 cửa sông thì đến nay chỉ còn 7 cửa tồn tại (cửa Ba Thắc tại Sóc Trăng đã bị phù sa và rừng bần phòng hộ bồi lấp vào khoảng những năm 1960-1970; cửa Ba Lai ở Bến Tre đã được thay bằng hệ thống cống đập ngăn mặn từ năm 2002), nhưng khí thế của “vùng đất chín rồng” từ hàng trăm năm nay vẫn còn nguyên vẹn.
Từ Hồng Ngự, Tân Châu về đến Cổ Chiên, Bình Đại; từ An Khánh, An Phú về đến Định An, Trần Đề, bất cứ nơi nào dòng Cửu Long chảy qua cũng đã tạo nên những vùng nông nghiệp rộng lớn và trù phú.
Gần 230 kilomet hạ lưu của sông Mekong dung chứa gần 500 tỷ mét khối nước hòa vào hệ thống kênh rạch chằng chịt khoảng hơn 14.800 kilomet, trải khắp 13 tỉnh miền Tây đã làm nên vùng đồng bằng gần 4 triệu hecta, đóng góp mỗi năm 50% sản lượng lương thực, 70% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản và 90% sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước.
Với sức nước của dòng Cửu Long và hệ thống kênh rạch, từ hàng trăm năm nay hệ thống giao thông thủy ở các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam đã phát triển vô cùng mạnh mẽ. Trong đó, có hàng chục tuyến đường thủy quốc gia với chiều dài gần 500 kilomet, bao gồm các tuyến đường sông quan trọng, huyết mạch như tuyến kênh Chợ Gạo, tuyến kênh ven biển Xà No… phụ trách vận chuyển hàng hóa từ ĐBSCL đi TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông Nam bộ.
Bên cạnh hệ thống giao thông đường thủy, từ các nhánh sông, cửa sông của hệ thống Cửu Long Giang, các tỉnh, thành khu vực Miền Tây đã xây dựng hệ thống hơn 2.500 cảng sông nội địa. Trong đó, có khoảng 13 cụm cảng hàng hóa và 11 cụm cảng hành khách quy mô lớn, đóng góp đáng kể vào hoạt động vận tải hàng hóa nông thủy sản và hành khách, giúp giảm tải áp lực cho các tuyến giao thông đường bộ, đường hàng không, đồng thời phát triển mạnh lĩnh vực logistics, kho vận cho các tỉnh, thành phía Nam.
Ở góc độ lịch sử văn hóa và phát triển du lịch, vai trò của hệ thống sông Cửu Long lại càng nổi bật và còn rất nhiều tiềm năng để các địa phương mở rộng khai thác.
Với hệ thống chi lưu và kênh đào chằng chịt, từ cuối thế kỷ XVIII, trên lòng sông Tiền Giang đã diễn ra trận thủy chiến vang dội của quận đội Tây Sơn chống lại liên quân Xiêm - Nguyễn với chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút. Trong các năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ hàng trăm trận đánh lớn nhỏ đã được tổ chức trên sông và các kênh rạch thuộc hệ thống Cửu Long Giang. Tiêu biểu có thể kể đến các chiến thắng trên sông Rạch Ruộng và sông Ba Rài (là các chi lưu của sông Tiền, thuộc địa phận Đồng Tháp, Tiền Giang), châm ngòi cho chiến dịch đồng khởi, nổi dậy tổng tiến công giải phóng vùng ĐBSCL mùa hè năm 1975.
Với sự bao bọc của các dòng sông, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo và sự hình thành, phát triển của nền văn hóa Nam bộ cũng gắn chặt với sông biển và kênh rạch. Ở khắp các khu vực từ Long An về đến Cà Mau, rất dễ dàng để bắt gặp những đền, miếu, lễ hội liên quan đến sông nước được người dân các địa phương tổ chức thờ cúng, thi thố và biểu diễn.
Bất cứ ai ở ĐBSCL đều biết đến những sinh hoạt văn hóa đặc trưng trên sông như: chợ nổi, lễ hội đón nước, đưa nước, đua ghe ngo… Hàng năm, vào các dịp lễ, tết những khu di tích đền, miếu liên quan đến truyền thuyết các vị thánh thần sông, biển như: Thủy Long Thánh Mẫu, Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Hòn, Miếu Bà Xóm Chài, Thiên Hậu Thánh mẫu… đều thu hút hàng triệu lượt người dân và du khách tham quan, cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa, xóm làng sung túc, ngư dân ra khơi bình yên trở về, đánh bắt được nhiều tôm, cá.
Cũng chính từ mạch nguồn phù sa của hệ thống Cửu Long Giang, hàng trăm năm qua, quá trình khai hoang mở cõi, mở đất của người dân Nam bộ đã hình thành và phát triển hết sức nhanh chóng. Khắp các lưu vực ven sông, ven kênh rạch, hàng năm vẫn có nhiều xã, ấp mới được hình thành và mở rộng. Những cánh đồng “thẳng cánh cò bay”, những vườn trái cây bạt ngàn, những khoảng rừng nguyên sinh ngập mặn… nối tiếp, nối tiếp nhau đã biến châu thổ Cửu Long trở thành khu vực sinh thái đa dạng bậc nhất cả nước. Sự rộng mở, khoáng đạt của thiên nhiên hòa trộn với sự màu mỡ của đất đai và sự hiền hòa của thời tiết khí hậu cũng đã góp phần hình thành tính cách cư dân Nam bộ vừa chân thật, hiền hòa vừa phóng khoáng, mạnh bạo và trượng nghĩa.
Đến đây có thể kết lại rằng, với sự ưu ái từ tạo hóa, thiên nhiên chúng ta đã vô cùng may mắn có được một vùng đồng bằng phù sa châu thổ rộng lớn, phì nhiêu bao bọc xung quanh hạ lưu trù phú của dòng Cửu Long Giang dài hơn 4.900 kilomet. Ngày nay, với những chiến lược thúc đẩy phát triển kinh tế sông khu vực ĐBSCL và những nỗ lực kết nối liên vùng, xây dựng các vựa lúa, vựa tôm cá, cây trái quy mô lớn, hạt gạo Việt Nam từ ĐBSCL đã “hóa rồng” với vị trí xuất khẩu nhất nhì thế giới; con tôm sú, tôm thẻ, con cá tra, cá ba sa và hàng chục loại nông thủy sản chủ lực từ các tỉnh Miền Tây đã vươn ra biển lớn với kim ngạch xuất khẩu mỗi năm hàng tỷ đô la. Tất cả những điều tốt đẹp này đều mang đậm vị ngọt của dòng nước, bãi bồi thuộc hệ thống sông Cửu Long - một dòng sông mà bằng cách nào đó của tạo hóa, thiên nhiên đã chia thành chín nhánh như chín con rồng ôm trọn lấy vùng đất phía Nam của tổ quốc trước khi đổ ra biển khơi rộng, dài vô tận.