Nhật Bản với hợp tác năng lượng ở Tiểu vùng Mekong
Để phát triển năng lượng tái tạo | |
Ký kết biên bản hợp tác xây dựng điện gió La Gàn | |
Trào lưu dùng đèn năng lượng để tiết kiệm điện |
Trong những năm gần đây, hợp tác giữa các nước thuộc Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS) gồm Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam và hai tỉnh Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc đã được gia tăng đáng kể. Khu vực này được đánh giá có tiềm năng tăng trưởng lớn trong ASEAN. Cùng với quá trình hội nhập sâu rộng của ASEAN và ASEAN+, các nước ở khu vực GMS cũng có nhiều sáng kiến và nỗ lực hợp tác trên nhiều lĩnh vực, từ thương mại, đầu tư đến phát triển kết cấu hạ tầng, năng lượng, viễn thông, phát triển nguồn nhân lực và môi trường… Trong đó, năng lượng là một lĩnh vực quan trọng, gắn kết mật thiết với quá trình hợp tác và phát triển của các ngành, lĩnh vực khác, TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) chia sẻ.
Kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng với tốc độ khá nhanh. Do đó, nhu cầu sử dụng năng lượng sẽ rất lớn và có xu hướng liên tục tăng nhanh. Để đáp ứng nhu cầu này một cách bền vững, Việt Nam đang chủ động nghiên cứu phát triển các nguồn năng lượng khác nhau.
“Việt Nam cũng cần nhìn nhận tầm quan trọng của việc phát triển năng lượng một cách bền vững ở khu vực GMS và đã thường xuyên, chủ động trao đổi với các quốc gia thành viên. Trong quá trình đó, chúng tôi đánh giá cao sự tham gia hỗ trợ tích cực của các đối tác ở cả trong và ngoài khu vực GMS”, TS. Minh cho biết thêm.
TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh bổ sung, dù được dự báo sẽ cần thêm năng lượng trong thập niên tới, song các nước ở khu vực GMS sẽ khó có thể phát triển bền vững và hiệu quả nếu chỉ xây dựng chính sách năng lượng một cách độc lập, không hài hòa với nhau.
Trong nhiều năm qua, Nhật Bản luôn là đối tác quan trọng trong thương mại và đầu tư của khu vực ASEAN, các nước GMS. Nhiều tổ chức và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ hợp tác với Nhật Bản, không chỉ ở tiềm lực tài chính và trình độ công nghệ hàng đầu của các doanh nghiệp Nhật Bản, mà trên hết là những kinh nghiệm quý báu trong phát triển. Những dự án của Nhật Bản đã nhận được sự phản hồi tích cực của người dân địa phương các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam, do có chất lượng cao, đóng góp nhiều cho sự phát triển kinh tế - xã hội, có quản trị tốt và minh bạch.
Đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng, Nhật Bản có nhiều dư địa để gia tăng hợp tác với các nước GMS. Bên cạnh việc tham gia các dự án năng lượng phù hợp, Nhật Bản còn có nhiều kinh nghiệm trong việc theo dõi, đánh giá tác động, cũng như việc xây dựng các kế hoạch, biện pháp xử lý các rủi ro liên quan đến các dự án này. Đơn cử, kinh nghiệm xử lý hậu quả và phục hồi sau khủng hoảng Fukushima, xảy ra đúng 10 năm trước, vẫn còn nguyên giá trị với nhiều nước GMS. Chính vì thế, doanh nghiệp Nhật Bản đang ngày một hiện diện nhiều hơn tại các nước GMS.
GS. Fukunari Kimura, Khoa Kinh tế, Đại học Keio - Kinh tế trưởng, Viện Nghiên cứu kinh tế ASEAN và Đông Á (ERIA) nhìn nhận, Tiểu vùng sông Mekong được đánh giá là khu vực thành công nhất thế giới về tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo trong ba thập kỷ qua. Tuy vậy, khoảng cách phát triển trong khu vực vẫn còn rất rộng, do đó, cần theo đuổi một phương án tăng trưởng bao trùm và bền vững hơn, như đẩy mạnh quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế các bon thấp. Cùng với đó, các vấn đề về phát triển bền vững khác như quản lý nguồn nước và môi trường… cũng đang trở thành những vấn đề cấp bách trong tiểu vùng. Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững cần phải có sự hài hòa tối đa.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, ASEAN là một trong những khu vực có nhu cầu điện năng tăng nhanh trên thế giới. Và Việt Nam đã vươn lên dẫn đầu về thị phần năng lượng tái tạo hiện đại trong ASEAN với sự phát triển của thủy điện và mới đây là điện mặt trời và điện gió, đưa năng lượng tái tạo trong sản xuất điện tăng từ 3,5% năm 2010 lên 6,5% năm 2020. 6,9% năm 2025 và 10,7% năm 2030 trong Quy hoạch phát triển điện VII.
Tuy có nhiều tiềm năng phát triển, song năng lượng tái tạo vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Trước hết là vấn đề tài chính, do thiết bị năng lượng tái tạo thường đắt đỏ hơn, trong khi cơ chế hỗ trợ còn yếu. Hay vẫn còn cơ chế hỗ trợ giá điện than là những rào cản thị trường khó vượt qua. Bên cạnh đó, trình độ hấp thụ công nghệ chưa cao, gây khó khăn trong tiếp nhận chuyển giao… Rất cần có luật riêng hoặc có cơ chế đặc thù về hợp tác đầu tư trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.
Từ thực tế trên, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM Nguyễn Anh Dương khuyến nghị, Việt Nam cần đảm bảo cơ cấu năng lượng cân bằng hơn giữa thủy điện, nhiệt điện, năng lượng tái tạo. Cùng với đó, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất nhập khẩu năng lượng ở mức độ hợp lý. Đồng thời, thúc đẩy thảo luận thực chất hơn về năng lượng và phát triển bền vững giữa các nước GMS; nâng cao năng lực đánh giá tác động môi trường của các dự án năng lượng dọc sông Mekong...