Quyền xử lý tài sản bảo đảm: Những khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị
Ảnh minh họa |
Trong hoạt động tín dụng, thế chấp tài sản được xem là biện pháp quan trọng để giảm thiểu rủi ro cho các TCTD, đây là nguồn thu thứ hai để có thể thu một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và lãi của khoản nợ.
Trong thực tế, khi phát sinh nợ xấu phần lớn khách hàng vay khó khăn về tài chính, thậm chí ngừng hoạt động, giải thể, phá sản nên việc xử lý tài sản bảo đảm có tính quyết định trong việc thu hồi để giảm tỷ lệ nợ xấu cho mỗi TCTD nói riêng, nền kinh tế nói chung.
Để xử lý tài sản có hiệu quả, vấn đề quyền xử lý tài sản của TCTD - bên nhận bảo đảm là một trong những yếu tố có tính quyết định. Thực tế hiện nay quyền xử lý tài sản bảo đảm bảo của TCTD bị hạn chế, thậm chí bị vi phạm dẫn đến việc xử lý tài sản gặp nhiều khó khăn. Quyền xử lý tài sản của TCTD không được đảm bảo, không được bảo vệ theo những nguyên tắc của Bộ luật dân sự.
Qua thực tế xử lý tài sản bảo đảm, bài viết sẽ nêu một số hạn chế về quyền xử lý tài sản phát sinh tại Agribank, nguyên nhân và kiến nghị đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện đầy đủ quyền xử tài sản của các TCTD.
1. Những hạn chế, khó khăn khi thực hiện quyền xử lý tài sản
Một là: Khó khăn trong việc thực hiện quyền thu giữ tài sản
Theo quy định pháp luật, TCTD - người nhận bảo đảm là người xử lý tài sản được quyền thu giữ tài sản để xử lý tài sản bảo đảm. Theo điều 63 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Điều 9 Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT- BTP-BTNMT-NHNN ngày 06 tháng 6 năm 2014 hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản có quy định: Người giữ tài sản bảo đảm phải giao tài sản đó cho người xử lý tài sản, hết thời hạn theo thông báo bên giữ tài sản không giao tài sản người xử lý tài sản có quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Người xử lý tài sản có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã và Cơ quan công an áp dụng các biện pháp để thực hiện quyền thu giữ.
Quy định là như vậy nhưng trên thực tế phần lớn việc thu giữ tài sản bảo đảm tổ chức tín dụng không thực hiện được quyền trên khi bên bảo đảm không hợp tác, chống đối. Nhiều trường hợp giao lại cho bên bảo đảm khai thác và sử dụng tài sản bảo đảm khi đấu giá tài sản thành công, bên giữ tài sản chống đối, cản trở không bàn giao tài sản bảo đảm.
Không thu giữ tài sản bảo đảm thì tổ chức tín dụng không xử lý được tài sản, thậm chí tổ chức tín dụng có nguy cơ vi phạm hợp đồng bán tài sản trong trường hợp đã bán tài sản nhưng bên giữ tài sản bảo đảm không giao tài sản cho bên mua tài sản.
Không thực hiện được quyền thu giữ tài sản, tổ chức tín dụng không xử lý được tài sản theo nguyên tắc thỏa thuận quy định tại Bộ luật dân sự và thỏa thuận tại Hợp đồng bảo đảm. Tổ chức tín dụng buộc phải khởi kiện - thực hiện theo con đường tố tụng, thi hành án.
Hai là: Khó khăn trong việc thực hiện quyền định giá khi xử lý tài sản
Định giá, giá bán khi xử lý tài sản cũng là việc ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý tài sản, ảnh hưởng đến lợi ích của các bên. Mong muốn của các TCTD là xử lý tài sản bảo đảm nhanh với số tiền thu nợ từ xử lý tài sản cao nhất. Trong thực hiện xử lý tài sản có 2 trường hợp xảy ra trái ngược nhau không như mong muốn của TCTD: Định giá bán (giá khởi điểm khi đấu giá) quá cao để kéo dài việc bán tài sản; ngược lại định giá bán (giá khởi điểm khi đấu giá) quá thấp gây thiệt hại cho ngân hàng.
Tại Agribank: Xử lý tài sản bảo đảm của Công ty TNHH Sản xuất thương mại Uy Đạt qua thi hành án (Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương), đấu giá thi hành án lần đầu từ tháng 2/2011 với giá khởi điểm 73.395.600.000 đồng, sau 16 phiên đấu giá, tháng 10 năm 2016 đấu giá thành công ngân hàng thu nợ được 12.000.000 đồng. Xử lý tài sản bảo đảm của Công ty TNHH Thông qua thi hành án (Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh-TP. HCM), đấu giá thi hành án lần đầu từ tháng 2/2012 với giá khởi điểm 385.000.000 đồng, sau phiên 11 đấu giá, giá khởi điểm xuống 85.041.000 đồng chưa có người mua.
Giá khởi điểm đấu giá quá cao, thời gian đấu giá kéo dài. Trong khi bên bảo đảm vẫn khai thác và hưởng lợi từ tài sản hàng tỷ đồng hàng tháng (ngân hàng không thể quản lý/quản lý triệt để hết được), trong khi đó giá trị tài sản suy giảm, chi phí vốn, chi phí xử lý tài sản tăng.
Quy định và quá trình thực hiện có nhiều kẽ hở để việc về xác định giá bán (giá khởi điểm khi đấu giá) không sát giá thị trường gây thiệt hại cho TCTD. Theo quy định tại điều 10 Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT- BTP-BTNMT-NHNN, trường hợp không thỏa thuận được giá bán tài sản thì bên bảo đảm có quyền chỉ định tổ chức có chức năng thẩm định giá.
Theo quy định về luật thi hành án, trường hợp bên được thi hành án và bên có tài sản thi hành án không thỏa thuận được giá khởi điểm đấu giá tài sản thì cơ quan thi hành án được quyền chỉ định tổ chức có chức năng thẩm định giá. Như vậy TCTD gần như không có quyền gì về giá bán tài sản bảo đảm. Trong khi đó thực tế độ tin cậy của giá được thẩm định không cao, từ ví dụ cụ thể sau hơn 4 năm đấu giá thành công với giá bán chỉ bằng 15 đến 20% định giá lần đầu đã minh chứng điều đó.
Ba là: Khó khăn trong việc thực hiện quyền chuyển nhượng khi xử lý tài sản
Khâu cuối cùng của bán tài sản, nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế nghĩa vụ trả nợ là thanh toán tiền chuyển nhượng tài sản và thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cho bên mua. Theo quy định thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm cho bên mua được thực hiện ngay cả khi bên bảo đảm không hợp tác.
Cụ thể Điều 70 Nghị định 163/2006/NĐ-CP, Điều 12 Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT- BTP-BTNMT-NHNN quy định trường hợp bên bảo đảm không tự nguyện ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chứng minh việc chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản thì bên nhận bảo đảm được quyền ký ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu đó nhưng trong hồ sơ chuyển quyền phải bổ sung 01 bản chính hợp đồng bảo đảm đã được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật.
Trong thực tế các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thực hiện nếu không có sự hợp tác của bên bảo đảm ký hợp đồng chuyển nhượng. Thậm chí cả những trường hợp bên bảo đảm đã chết, không có di chúc về tài sản thì phải được người thừa kế theo pháp luật ký hợp đồng chuyển nhượng tài sản!
Các quyền của TCTD bị hạn chế, bị vi phạm TCTD đã không được bảo vệ theo thỏa thuận tại hợp đồng bảo đảm và nguyên tắc của Bộ luật dân sự. Khi đó buộc TCTD phải đi theo con đường “trần ai” đó là tố tụng, thi hành án. Trong phạm vi bài viết nay không đề cấp tiếp những hạn chế quyền xử lý tài sản khi đi theo “con đường đó”.
2. Nguyên nhân hạn chế quyền xử lý tài sản của TCTD
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc hạn chế, vi phạm quyền xử lý tài sản bảo đảm của TCTD, xuất phát từ các hạn chế, khó khăn nêu tại bài viết này xin đề cấp ba nguyên nhân: Hành lang pháp lý về xử lý tài sản, tổ chức thực hiện và nguyên nhân từ phía TCTD.
Thứ nhất: Hành lang pháp lý về xử lý tài sản
Mặc dù những năm gần đây đã có nhiều cố gắng nhưng các quy định về xử lý tài sản nói chung và quy định về quyền xử lý tài sản của TCTD còn nhiều hạn chế. Tóm lược lại là vừa thiếu, không cụ thể, còn chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn lẫn nhau.
Thực hiện quyền thu giữ có quy định trách nhiệm của cơ quan công an tại địa phương thu giữ tài sản nhưng không có hướng dẫn cụ thể và chế tài bắt buộc nên thực tế cơ quan công an cho rằng họ không có trách nhiệm khi TCTD yêu cầu. Thông tư liên tịch 16 hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm không có Bộ công an tham gia ban hành.
Theo quy định tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP, Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT- BTP-BTNMT-NHNN, TCTD được quyền thực hiện chuyển nhượng kể cả khi bên bảo đảm không hợp tác, tuy nhiên các quy định khác có liên quan (như quy định về chuyển quyền sử dụng đất) quy định phải có chữ ký của chủ tài sản nên các cơ quan có thẩm quyền không thực hiện theo quy định tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP, Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT- BTP-BTNMT-NHNN.
Bộ luật dân sự đặc biệt Bộ luật dân sự năm 2015 (có hiệu lực 01/01/2017) rất đề cao tính tự nguyện, thỏa thuận trong giao dịch dân sự. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn Bộ luật dân sự không hướng dẫn cụ thể dẫn đến bị lợi dụng nguyên tắc tự nguyện, thỏa thuận trong giao dịch cũng như trong tố tụng dân sự làm phát sinh các vụ kiện dân sự, quá trình tố tụng kéo dài gây tổn phí và không bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các TCTD.
Thứ hai: Hạn chế trong giao dịch bảo đảm và xử lý tài sản của các tổ chức, chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước có liên quan
Xuất phát từ hạn chế của quy định pháp luật về bảo đảm tài sản nói riêng và quy định của pháp luật có liên quan nói chung, nên có cách hiểu, cách làm khác nhau, thậm chí cố tình lợi dụng kẽ hở của pháp luật. Nhưng, chưa có chế tài xử lý vi phạm nên việc xử lý gặp nhiều khó khăn, vi phạm quyền xử lý tài sản bảo đảm của các TCTD.
Hợp đồng bảo đảm đã được cơ quan công chứng xác nhận khi bị tuyên vô hiệu, gây thiệt hại cho TCTD nhưng không được cơ quan công chứng bồi thường thiệt hại.
Giá bán tài sản (bán liên tục) chỉ bằng 20% giá của đơn vị thẩm định giá, tổ chức thẩm định giá, cơ quan thuê thẩm định giá không chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định giá.
Cơ quan thi hành án đình chỉ thi hành án không đúng quy định, gây thiệt hại cho TCTD không phải bồi thường.
Thứ ba: Nguyên nhân về phía các TCTD
Chưa phát huy quyền xử lý tài sản cũng có nguyên nhân từ các TCTD, chưa tận dụng hết nguyên tắc tự nguyện, nguyên tắc thỏa thuận trong Bộ luật dân sự và quy định pháp luật có liên quan. Cụ thể:
a) Thỏa thuận và ký kết hợp đồng bảo đảm còn chung chung, không cụ thể, không nêu chế tài khi vi phạm. Xử lý tài sản là nội dung rất quan trọng của hợp đồng bảo đảm nhưng thường rất sơ sài, không cụ thể. Hợp đồng chỉ nêu bên nhận bảo đảm bảo được quyền quyết định một trong các phương thức xử lý sau (các phương thức được nêu trong Nghị định 163/2006/NĐ-CP). Quy định pháp luật nêu nhiều phương thức xử lý tài sản nhưng trong hợp đồng phải lựa chọn và thỏa thuận một phương thức (tất nhiên trong quá trình thực hiện có thể thỏa thuận sửa đổi, bổ sung). Khi lựa chọn phương thức xử lý phải nêu thật cụ thể về xử lý tài sản.
Ví dụ: Phải thỏa thuận thu giữ tài sản như thế nào, việc xác định giá bán/giá khởi điểm như thế nào, việc thuê tổ chức thẩm định giá/đấu giá tài sản, việc bàn giao tài sản, cần thiết có thể ủy quyền cho TCTD bán tài sản khi vi phạp hợp đồng tín dụng ngay khi ký hợp đồng bảo đảm.
Đặc biệt cần quy định rõ chế tài vi phạm (Khoản 4 Điều 63 Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định Bên bảo đảm hoặc người thứ ba giữ tài sản bảo đảm không giao tài sản để xử lý hoặc có hành vi cản trở việc thu giữ hợp pháp tài sản bảo đảm mà gây thiệt hại cho bên nhận bảo đảm thì phải bồi thường).
Hợp đồng càng chi tiết, càng cụ thể sẽ hạn chế tranh chấp, nếu có tranh chấp TCTD sẽ có đủ căn cứ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
b) TCTD chưa mạnh dạn trong việc nhận tài sản để thay thế nghĩa vụ trả nợ. Một trong các phương thức xử lý tài sản bảo đảm là nhận tài sản thay thế nghĩa vụ trả nợ, theo quy định tại luật thi hành án dân sự, Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT- BTP-BTNMT-NHNN sau khi bán đấu giá/hạ giá 3 lần trở lên TCTD được nhận tài sản để thay thế nghĩa vụ trả nợ.
Tại khoản 3 Điều 132 Luật Các TCTD năm 2011 quy định TCTD được nắm giữ bất động sản do việc xử lý nợ vay. Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày quyết định xử lý tài sản bảo đảm là bất động sản, TCTD phải bán, chuyển nhượng hoặc mua lại bất động sản này để bảo đảm tỷ lệ đầu tư vào tài sản cố định.
Nắm giữ tài sản bảo đảm để thay thế nghĩa vụ trả nợ sẽ tăng quyền chủ động xử lý tài sản và xử lý tài sản có hiệu quan, tuy nhiên phương thức này còn ít được sử dụng.
3. Giải pháp, kiến nghị để đảm bảo quyền xử lý tài sản của các TCTD
Như đã trình bày nguyên nhân chính gây khó khăn trong xử lý tài sản bảo đảm nói chung và hạn chế quyền xử lý tài sản nói riêng là cơ chế về xử lý tài sản bảo đảm còn nhiều bất cập. Việc ban hành, sửa đổi, bổ quy định về xử lý tài sản và quy định về chế tài đối với vi phạm trong xử lý tài sản bảo đảm sẽ cởi nút thắt trong xử lý nợ xấu của các TCTD hiện nay. Cụ thể:
Cần ban hành luật về xử lý nợ của các TCTD trong một giải đoạn nhất định. Trường hợp không ban hành luật có thể ban hành Nghị quyết của Quốc hội hoặc thông tư liên tịch về xử lý nợ của các TCTD có tham gia của các bộ, ngành có liên quan.
Sớm ban hành Nghị định thay thế Nghị định 163/2006/NĐ-CP, Nghị định phải cụ thể hóa Bộ luật dân sự năm 2015 và phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam.