Tiến nhanh để không lỡ nhịp…
Doanh nghiệp Việt vẫn “bình chân như vại” trước chuyển đổi số | |
Dù còn nhiều thách thức, nhưng chuyển đổi số sẽ thành công |
Để đáp ứng nhu cầu đó của khách hàng, hành trình chuyển đổi số không chỉ đơn thuần là một dự án về công nghệ mà phải trở thành chiến lược bài bản của cả hệ thống với từ hội đồng quản trị, ban điều hành tới các khối, ban, phòng chuyên môn và sự đồng hành của các đối tác. Trong tiến trình đó, ngân hàng cũng sẽ phải nhận diện ra những thách thức, nhanh chóng lựa chọn được giải pháp phù hợp để hiện thực hoá mục tiêu số của mình. Thời báo Ngân hàng ghi nhận một số ý kiến của các NHTM, chuyên gia xung quanh câu chuyện này.
TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV: Phải biết bắt đầu từ đâu
Hiện đóng góp ngân hàng số đang tương ứng khoảng 37 - 40% tổng thu dịch vụ của ngân hàng và dự kiến sẽ còn tăng mạnh hơn nữa trong thời gian tới. Điều này khớp với khảo sát gần đây của McKinsey nhận định cho các ngân hàng tại châu Á là tiến tới 2020, thu từ dịch vụ của các ngân hàng có thể chiếm khoảng 44%.
Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn nhìn nhận hệ thống ngân hàng Việt Nam còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Trong đó, có ba thách thức lớn nhất: Đầu tiên chính là câu chuyện về thể chế cho hoạt động của nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng còn nhiều vấn đề cần phải bàn tới. Điểm thứ hai liên quan đến hạ tầng và thứ ba là liên quan tới con người.
Cũng cần phải nói thêm rằng một trong số những điểm nghẽn trong năng lực cạnh tranh là con người, cụ thể hơn nằm ở kỹ năng của lực lượng lao động Việt Nam còn rất thấp, nhất là kỹ năng của sinh viên mới ra trường là vấn đề bất cập. Báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cũng cho thấy, lực lượng lao động kỹ năng cao, trình độ cao ở Việt Nam mới chỉ khoảng 12% so với bình quân thế giới là 20%. Chưa kể, quá trình chuyển đổi tái cơ cấu kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng còn chậm so với yêu cầu đặt ra.
Thách thức đặt ra cho các ngân hàng hiện nay trong chuyển đổi số là việc phải biết chắc chắn mình cần bắt đầu từ đâu. Bên cạnh đó, ngân hàng phải nhận thức được việc khách hàng là trung tâm, nên câu chuyện liên quan tới trải nghiệm khách hàng, tới hệ sinh thái cho khách hàng là vô cùng quan trọng. Trong tiến trình này thì Big data là một điều cực kỳ cần đặc biệt lưu ý, nhất là đối với người dùng và người khai thác dữ liệu lớn này. Về vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, tôi cho rằng sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp và cơ quan quản lý cần phải chặt chẽ hơn. Đồng thời, các trường đại học khối Kinh tế cũng nên nghiên cứu để sớm đưa vào những chương trình đào tạo, nghiên cứu sâu hơn về Fintech, ngân hàng số, Big Tech.
Ông Nguyễn Hưng, Tổng giám đốc TPBank: Điều chỉnh quy trình, tập trung đầu tư công nghệ
Tôi cho rằng, chiến lược, tầm nhìn rõ ràng; điều chỉnh quy trình, cơ cấu cho phù hợp và tập trung đầu tư vào công nghệ mới… là những yếu tố mấu chốt để chuyển đổi số thành công. Trong đó, yếu tố đầu tiên là chiến lược và tầm nhìn của đội ngũ ban lãnh đạo. Tại TPBank, nhờ sở hữu nền tảng công nghệ sẵn có, ngay từ khi mới thành lập chúng tôi đã xác định mục tiêu về ngân hàng số với chiến lược phát triển dựa trên nền tảng và sản phẩm công nghệ số, thu hút khách hàng trẻ ưa thích công nghệ.
Ngân hàng cũng cần có sự thay đổi về quy trình, cơ cấu để đảm bảo sự linh hoạt giữa phát triển và vận hành sản phẩm cũng như sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận, phòng ban. TPBank đã thành lập các tổ dự án chuyên biệt với các chức năng, nhiệm vụ cụ thể để triển khai đồng nhất các sản phẩm, quy trình ứng dụng công nghệ số nhằm cải thiện trải nghiệm khách hàng, gia tăng doanh thu, tiết giảm chi phí đồng thời kiểm soát rủi ro.
Yếu tố quan trọng khác là tập trung đầu tư vào công nghệ mới. TPBank liên tục cập nhật xu hướng công nghệ mới trên thế giới, chọn lọc và ứng dụng chúng vào ngành tài chính - ngân hàng. Có thể nói, đầu tư vào công nghệ rất mạo hiểm và tốn kém. Chúng tôi đã bỏ ra rất nhiều chi phí đầu tư vào công nghệ, nguồn lực, chất xám… không phải để lấy danh hiệu dẫn đầu, mà bởi chúng tôi thấy được rằng công nghệ là xu thế tất yếu, nếu không bắt kịp sẽ bị tụt hậu.
Ngoài những vấn đề trên, chúng ta cần lưu ý vấn đề an ninh bảo mật. Công nghệ phát triển nhưng tội phạm công nghệ cũng ngày càng tinh vi. Do đó, yêu cầu về lưu trữ và bảo mật thông tin khách hàng, dữ liệu giao dịch cũng ngày càng cao. Về vấn đề pháp lý cũng vậy, công nghệ thay đổi nhanh nhưng lĩnh vực ngân hàng cũng có cái khó là pháp lý chặt chẽ. DN được làm những gì pháp luật không cấm, nhưng ngân hàng thì chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Do đó TPBank cũng phải chuẩn bị để đến khi cơ quan quản lý có cơ chế cho phép thì có thể triển khai luôn, chứ không để tình trạng đến lúc đó mới chạy thì sẽ mất đi lợi thế.
Nếu nói về lợi ích mà ngân hàng số mang lại thì khá trừu tượng nhưng thực tế cho thấy, với nền tảng công nghệ số hiện đại, đến nay TPBank đã xây dựng được rất nhiều sản phẩm công nghệ số vượt trội và thu hút được sự quan tâm của nhiều khách hàng, nhờ đó cũng giúp gia tăng doanh thu cho ngân hàng. Công nghệ số cũng giúp gia tăng trải nghiệm cho khách hàng, nhiều sản phẩm, dịch vụ ngân hàng cung cấp đã mang tính cá nhân hóa và phục vụ tức thời. Đơn cử, tại TPBank LiveBank, khách hàng có thể thực hiện giao dịch vào ban đêm hay ngay cả ngày Tết mà không gặp khó khăn gì.
Công nghệ số cũng giúp chúng tôi quản trị tốt hơn, tiết kiệm nhiều nguồn nhân lực, quản trị rủi ro, hạn chế tổn thất cho ngân hàng. Chúng tôi sẽ tiến đến là “Ngân hàng không ngủ”, không chỉ có dịch vụ nạp/rút tiền mà còn nhiều hơn thế nữa, có thể phục vụ mọi lúc, mọi nơi và được khách hàng ngày càng đánh giá cao.
Ông Trần Công Quỳnh Lân - Phó tổng giám đốc VietinBank: Cải thiện trải nghiệm khách hàng trên tất cả kênh giao tiếp
Chiến lược chuyển đổi số của VietinBank chia ra 4 đầu mục cụ thể. Đầu tiên là phải ứng dụng công nghệ để làm sao thay đổi trải nghiệm của khách hàng khi khách hàng tương tác với ngân hàng. Điều này có nghĩa là cải thiện trải nghiệm tất cả kênh mà khách hàng đang giao tiếp với ngân hàng như Mobile Banking, Contact Centre, chi nhánh... Ứng dụng mobility (công nghệ di động) nhằm mục tiêu khi khách hàng dùng mobile để có thể thực hiện hầu hết các dịch vụ một cách thuận tiện và thông minh nhất, để khách hàng khi đến giao dịch tại quầy thì ngân hàng có hệ thống nhận diện khuôn mặt, có thể nhận diện ngay khách hàng là ai thay vì phải kiểm tra chứng minh thư nhân dân, chữ ký...
Thứ hai, hiện nay VietinBank cũng muốn dùng công nghệ để số hoá những quy trình vận hành của mình, làm sao có thể dùng trí tuệ nhân tạo, lập trình robot, dữ liệu lớn để tự động hoá quy trình, những quy trình đang còn làm thủ công, làm nhiều thao tác lặp đi lặp lại chúng ta có thể dùng công nghệ robotic và AI để tự động hoá. Thứ ba, ngân hàng phải số hoá sản phẩm của mình, tích hợp sản phẩm tài chính và sản phẩm công nghệ để cung cấp cho khách hàng gói sản phẩm combo. Thứ tư, công nghệ phải được tích hợp, tạo nên hệ sinh thái giữa ngân hàng và các ngành nghề khác nhau, bởi suy cho cùng ngân hàng phải hướng tới khách hàng, và khách hàng thì không chỉ sử dụng dịch vụ ngân hàng mà còn có nhu cầu mua sắm, du lịch, y tế...
iPay Mobile Lifestyle của VietinBank ra đời dựa theo chiến lược đó. Đầu tiên là số hoá kênh mobile để khách hàng có thể sử dụng điện thoại di động tương tác với ngân hàng tiện lợi nhất. Ngược lại, mobile trở thành kênh giao dịch lớn nhất của ngân hàng. Đây cũng là kênh giao dịch lớn nhất của VietinBank hiện tại, số lượng giao dịch qua mobile của VietinBank hiện đã gấp ba lần số lượng giao dịch qua internet.
Và điều đặc biệt quan trọng để khuyến khích khách hàng tương tác trên di động là thúc đẩy sự thân thiện, dễ dùng và phải cực kỳ nhanh. Sử dụng iPay Lifestyle của VietinBank, khách hàng sẽ không chỉ nhìn thấy chức năng của ngân hàng mà còn thấy được chức năng của hệ sinh thái liên quan, ví dụ như có thể đặt vé máy bay/tàu/xe, mua sắm online... Tựu chung lại, chiến lược của VietinBank là cung cấp ứng dụng phục vụ tất cả nhu cầu đời sống hàng ngày và digital lifestyle của khách hàng.
Ông Nguyễn Minh Đức Giám đốc Dữ liệu MB: Cần chiến lược về quản trị dữ liệu
Ngân hàng đang chuyển hướng sang lưu trữ dữ liệu và giá trị của ngân hàng hiện nằm ở dữ liệu. Bởi suy cho cùng, tất cả ngân hàng bằng một cách nào đó đều đang thực hiện việc quản trị dữ liệu và đang sử dụng dữ liệu để đưa ra quyết định cho hoạt động kinh doanh của mình. Trên thế giới, từ năm 2006 đã có thuật ngữ mới khi coi dữ liệu là “vàng đen” hàm ý nhấn mạnh giá trị to lớn của dữ liệu. Nếu dữ liệu quan trọng như vậy, thì các ngân hàng đối xử với dữ liệu ra sao? Hiện tại, dữ liệu được coi là một tài sản chiến lược nếu ngân hàng muốn có sự cạnh tranh vượt trội so với những đơn vị khác, dữ liệu là công cụ chiến lược thực hiện việc đó.
Tuy nhiên, việc quản trị dữ liệu cũng là lĩnh vực còn tương đối mới. Trước đây, mọi người thường nghĩ đơn thuần quản trị dữ liệu là một phần của công nghệ thông tin, nhưng hiện nay quản trị dữ liệu đã được tách riêng thành một lĩnh vực mới, hay gọi là khoa học dữ liệu. Những bề nổi về dữ liệu dễ dàng nhắc tới như máy học, trí tuệ nhân tạo, hệ thống báo cáo thông minh… song nền tảng bên dưới để có hệ thống dữ liệu tốt chính là quản trị dữ liệu.
Quản trị dữ liệu là sự chọn lọc đầu vào, bạn nắm trong tay dữa liệu rồi nhưng quan trọng là chất lượng dữ liệu đó nằm ở đâu, có khai thác sử dụng được hay không. Nếu chất lượng dữ liệu không tốt sẽ dẫn đến việc ngân hàng ra những quyết định sai. Thực tế, hóa học dữ liệu ở Việt Nam còn tương đối mới, cách đây khoảng 3 - 4 năm các ngân hàng mới bắt đầu chú ý, quan tâm tới vấn đề này nhiều hơn. Đang có khoảng 60% những thông tin đơn thuần như số điện thoại, chứng minh thư nhân dân, email của khách hàng… là chưa chính xác, đấy là thực tế.
Thậm chí có một số trường hợp một người có thể dùng số điện thoại của họ để đăng ký 6 - 7 tài khoản internet banking. Đó là những lỗ hổng phản ánh nhận thức về giá trị mới của phần đông còn ở bước sơ khai. Tôi thừa nhận để có một chiến lược về quản trị và sử dụng dữ liệu không hề đơn giản, nhưng chúng ta phải có bước đầu thì mới có thể tiến những bước xa hơn trong tương lai.
Ở thời đại số hoá, các ngân hàng cần có cơ chế để đảm bảo thông tin thu thập là chính xác, cơ chế chia sẻ dữ liệu giữa các bên để vừa đảm bảo an toàn nhưng vẫn mang lại giá trị. Chú trọng hơn tới phát triển nhân lực ngành dữ liệu nói chung và công nghệ nói riêng, vì thực tế lực lượng này còn rất thiếu và yếu.
Ông Ngô Tấn Vũ Khanh Giám đốc Kaspersky khu vực Indochina: Lựa chọn giải pháp phù hợp, xác định mức độ bảo mật
Có thể thấy, cuộc chạy đua công nghệ trong ngành Ngân hàng với các dự án ngân hàng số cũng góp phần tạo nên rủi ro trong vấn đề bảo mật nói chung và mất an toàn thông tin người dùng nói riêng. Đã đến lúc ngành Ngân hàng phải rất nghiêm túc trong việc nhận dạng các rủi ro mất an toàn thông tin như hiện nay. Tôi cho rằng ngân hàng là đơn vị sẵn sàng sử dụng nguồn chi phí hàng năm cho việc bảo mật và an toàn thông tin.
Tuy nhiên cái quan trọng là lựa chọn giải pháp nào đúng, phù hợp và bảo mật an toàn thông tin bao nhiêu là đủ. Từ những yếu tố đó, chúng ta sẽ thấy vấn đề về công nghệ không hoàn toàn là yếu tố quyết định việc ngân hàng có đủ mức độ bảo mật hay không, mà còn liên quan tới vấn đề con người, quy trình hay văn hoá doanh nghiệp trong bảo mật an toàn thông tin.
Việc thất thoát dữ liệu hiện nay ở Việt Nam chủ yếu do con người, đến từ việc cố ý lấy cắp cho đến ý thức, kiến thức về bảo mật dữ liệu còn rất hạn chế. Chưa kể, nguồn nhân lực cho việc bảo mật ở ngân hàng vẫn còn đang thiếu hụt cả về chất và lượng. Bên cạnh đó, thách thức an ninh an toàn trong chuyển đổi số ngân hàng còn liên quan tới yếu tố bên ngoài, khi các ứng dụng hay phần mềm của ngân hàng có sự tham gia thiết kế của đơn vị thứ ba. Các công cụ bảo mật có thể rất nhiều tại ngân hàng lớn, nhưng lại chưa được tận dụng triệt để, hết công suất. Ngược lại, với các nhà băng quy mô nhỏ, thì còn thiếu kinh phí để đầu tư bài bản cho các giải pháp bảo mật và an toàn thông tin.
Kế đến là câu chuyện về thanh toán, có thể thấy NHNN cũng như các tổ chức quốc tế về thanh toán đều khuyến khích ngân hàng phải rất chú trọng tới an ninh an toàn trong thanh toán điện tử. Thực tế, các ngân hàng tại Việt Nam cũng đang có sự cải thiện để dần đáp ứng theo các tiêu chuẩn ISO 27000, PCI-DSS. Tôi khuyến khích các ngân hàng nên tập trung vào vấn đề bảo mật, an ninh an toàn trước, sau đó mới quan tâm tới việc phát triển hệ sinh thái thanh toán thì sẽ tốt hơn.
Thị trường trong tương lai gần sẽ chứng kiến nhiều sự hợp tác hơn giữa ngân hàng với các công ty Fintech. Để có thể mang lại lợi ích cho cả phía ngân hàng, Fintech và khách hàng thì cả ba bên phải kết hợp được với nhau. Kết hợp ở đây được hiểu là cả ba bên phải chấp nhận sự tồn tại của nhau, hỗ trợ nhau để cùng vì mục đích phát triển chung.
Thêm nữa, tôi cho rằng cần phải nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện các quy định, quy chuẩn, chế tài minh bạch, rõ ràng liên quan tới các “người chơi mới” trên thị trường Việt Nam, và đặc biệt phải liên tục được cập nhật bởi công nghệ thay đổi rất nhanh. Nhiều đơn vị đã đề xuất Nhà nước nên có sandbox để thử nghiệm những quy định, chế tài mới dành cho Fintech. Đây là giai đoạn khuyến khích cả ba bên đều phải quan tâm bảo mật an toàn thông tin khi cung cấp cho nhau những API (giao diện lập trình ứng dụng).
Bên cạnh đó phải có quy định, tiêu chuẩn chung về mặt kỹ thuật, về chuẩn an toàn thông tin thế giới đang sử dụng. Riêng đối với cá nhân, trong một thế giới của sự kết nối, người dùng phải ngày càng quan tâm hơn tới quyền riêng tư của họ khi tham gia vào hệ sinh thái thanh toán, đặc biệt là Fintech.