Tôi đi Mỹ
Lần đầu tiên tôi giáp mặt với người Mỹ ở chiến trường An Khê là năm 1968. Đúng hơn là lính Mỹ ở Sư đoàn Không vận số I của không lực Hoa Kỳ. Hồi đó tôi là lính huyện đội K8, tức huyện đội An Khê (Gia Lai). Chúng tôi sống và chiến đấu ở thế da báo, tức là quân ta sống xen kẽ với quân Mỹ. Mỹ quả núi này thì ta quả núi kia. Mỹ và ta có khi đóng quân chỉ cách nhau vài chục mét, nghe mùi thuốc lá, nghe cả tiếng động của nhau…
Đụng độ thường ngày. Vì cánh tôi là bộ đội địa phương, hoạt động hoàn toàn theo chiến thuật du kích. Không có quy luật, hay đúng hơn, quy luật của chúng tôi lựa theo hoạt động của quân địch. Đối với tôi, cũng như các bạn đồng đội của tôi hoàn toàn chỉ có một ý nghĩ: “Mỹ là bọn xâm lược, phải đánh đuổi”.
Kiến thức về nước Mỹ của tôi khi ấy vào loại khá, được thầy dạy sử trường cấp III Ngô Quyền (Hải Phòng) dạy là: “Mỹ chỉ có 200 năm lịch sử, trong khi ở ta đã có 4.000 năm dựng nước và giữ nước, thì các em biết đấy, sánh thế nào được. Nói nôm na thế này, lịch sử nước Mỹ dài bằng gang tay, còn ta dài bằng sải tay…”.
Rồi thầy tôi giảng thêm rất hùng hồn rằng, nước ta rừng vàng biển bạc, mỏ vàng đen (than ta gọi là vàng đen) rồi vàng, bạc, đồng, chì, sắt, kẽm, cái gì cũng có, có khắp nơi, chỉ cần bới lên là có cái ăn. Ta cái gì cũng hơn Mỹ. Mỹ toàn sa mạc nên bây giờ chúng phải đổ quân sang ta cướp của…
Tôi phải xin các bạn đọc cái ngoặc đơn ở chỗ này, rằng thầy tôi trong mắt tôi khi ấy là một nhà sử học lỗi lạc, kiến thức siêu phàm. Thầy kể về các miền sa mạc khủng khiếp của nước Mỹ (là thầy kể chuyện ngoài giờ, sau giờ giảng chính thức), những cái tên Arizona hay LasVegas hồi ấy tôi đã nghe đã hiểu và cho mãi tới bây giờ trong tôi vẫn chỉ hình dung là vùng sa mạc kinh hoàng.
Thầy tôi giảng rất say sưa vì thấy tôi tin như thế, và đúng là như thế. “Các em hãy hình dung bão cát nó khủng khiếp thế nào. Cát và cát và gió và nóng, con người ta sống thế nào? Chỉ có con lạc đà có cái bướu trữ nước mới sống được. Chưa hết, mùa đông thì bão tuyết, lạnh âm ba bốn mươi độ, con người sống ra sao? Sống ra sao???", Vân vân và vân vân.
Lứa chúng tôi đi chiến trường đánh Mỹ, ngoài lòng căm thù giặc sâu sắc vì đất nước bị chia cắt, ngoài truyền thống con lạc cháu hồng, thì còn mang theo trong lòng cả một khối kiến thức sâu rộng về lịch sử, địa lý kiểu như thế, không băn khoăn, không có lý do gì phải băn khoăn.
Và ta đã đánh và ta… đã thắng!
Năm 2000, tôi qua nước Mỹ theo chương trình được mời của trung tâm WillanJoiner, một tổ chức phi chính phủ của các cựu chiến binh Mỹ, chuyên nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam.
Trước khi qua Mỹ tôi có mang theo một số sách viết về người Mỹ, viết về nước Mỹ để tìm hiểu. Tôi cũng có nhiều cơ hội gặp gỡ nói chuyện với một số các anh bạn là nhà văn nhà thơ Việt đã từng sang bên đó. Mỗi người có cách nhìn nhận và cách cảm, cách đánh giá khác nhau. Có một nhà thơ từng học và từng đi Mỹ nhiều lần bảo tôi, người Mỹ rất thích nói thẳng, nói thật, tư duy của họ không hề lắt léo, không uốn éo lượn lờ như người Việt mình.
Tôi mấy năm nay cũng có chơi với anh Bruce We, một giáo sư, nhà thơ người Mỹ chính cống. Bruce từng là lính của sư đoàn không vận số I của Mỹ đóng tại An Khê. Khi Bruce đóng quân ở đó thì tôi cũng ở đó. Mỗi thằng một bên, nếu đụng độ thì biết thế nào? Thế mà hai địch thủ là tôi và Bruce xưa, bây giờ gặp nhau.
Qua câu chuyện tình cờ, hôm ấy Bruce đến phòng của tôi chơi, nhân chuyến sang Việt Nam dự hội thảo thơ quốc tế. Anh được dịch giả nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai dẫn tới. Tôi quen biết Bruce từ chuyến đi trước (năm 2000) ở nhà KeVin. Hôm ấy tôi và nhà thơ Nguyễn Duy có sáng kiến đãi các nhà văn nhà thơ Mỹ bữa cơm Trường Sơn.
Chúng tôi làm cơm vắt muối vừng, rau quả linh tinh mua từ chợ Mỹ. Ở Mỹ, đi chợ mua rau quả gì cũng có, nhưng không thấy có rau tầu bay! Chúng tôi mời các bạn Mỹ ăn cơm nắm muối vừng, bắp nướng và có thêm cả thịt bò nướng, rượu Whisky, chơi ngoài sân, ăn uống no nê, đọc thơ, kể chuyện ngon nghẻ và thích thú lắm.
Lần đầu tiên tôi kể cho Bruce nghe chuyện thời ấy, những người du kích trẻ chúng tôi đã từng tổ chức đột kích chốt Mỹ, để lấy đồ hộp. Hồi đánh Mỹ, cánh lính địa phương chúng tôi ở trong rừng Gia Lai, có trăm ngàn cái khó, cái khổ. Mỗi lần bọn Mỹ dọn bãi đổ quân, sau khi chúng san bằng đỉnh một quả núi, cho trực thăng xuống đổ lương thực thực phẩm, lập tức cánh tôi mò vào “ăn trộm”.
Trong cái khoảnh khắc chúng chưa kịp phân tán tới các chốt nhỏ, chúng tôi đã mật phục sẵn và mò vào lấy đi vài bao cát lương thảo… Đồ hộp Mỹ ngon hơn gấp nhiều lần so với đồ hộp của ta và cả của Thái Lan. Chúng tôi thường đùa với nhau, đồ ngon là đồ ăn trộm!
Cuộc đi Mỹ lần này nhóm chúng tôi có 4 người. Tôi, Lâm Thị Mỹ Dạ, Tô Đức Chiêu và nhà thơ Nguyễn Duy. Trình độ nói tiếng Anh của ba thành viên còn lại ngang nhau vì đều tốt nghiệp loại ưu của chương trình tiếng Anh khóa I Nguyễn Du. Tô Đức Chiêu nói rất dứt khoát, hơi giật cục, nhưng đúng là tiếng Anh giao tiếp kiểu người nói cho người nói nghe, người nghe tưởng mình đang nghe tiếng nước nào.
Tô Đức Chiêu là người chỉn chu, hóm hỉnh, anh cao to như Mỹ, người “quá khổ” nên hồi học Nguyễn Du mỗi bữa ăn của anh được anh dọn ra dưới gốc bàng chỉ có một cái nồi to tổ bố cùng bát lạc rang với muối. Mỗi miếng cơm một hột lạc, anh đánh một lúc tám bát cơm!
Lâm Thị Mỹ Dạ nói tiếng Anh rất du dương thỏ thẻ, có giai điệu và có tiết tấu hẳn hoi, thậm chí hổn hển khiến người nghe phải tập trung tư tưởng tối đa để… đoán. Cuối cùng cũng phải dùng… tay mà nói cho lành. Dạ nói tiếng Việt đôi khi tôi cũng phải dịch cho các bạn hiểu, nói gì tiếng Anh! Giọng của Dạ Quảng Bình pha Huế rất líu lo.
Tôi thì nổi tiếng không biết tiếng gì, chỉ biết mỗi tiếng BahNar, vậy nên đi khắp đó đây bằng “tiếng chân tay”, thậm chí có lúc tôi phải huy động toàn cơ thể để… nói. Tôi có thủ sẵn hai tờ giấy to, nhờ hẳn hai nhà lý luận phê bình văn học trẻ nổi tiếng của ta là Nguyễn Thanh Sơn và Phạm Xuân Nguyên viết cho mấy dòng tiếng Anh “chuẩn”, đại khái, “Tôi là người Việt Nam. Tôi không biết tiếng Anh. Tôi cần bạn giúp đỡ”.
Nói thật, bây giờ cả ba anh em tôi đều già rồi, nghĩ lại chỉ thấy buồn cười, chứ lúc ấy thì tôi và bác Tô quá mệt vì cái cô nhà thơ Lâm Thị ú văn ớ. Chả là khi xếp hàng làm thủ tục ở sân bay LosAngeles đi Boston, tôi đứng trước, Dạ đứng sau, anh Chiêu khóa đuôi. Đang xếp hàng Dạ bảo tôi: "Đỉnh coi đồ đoàn cho Dạ với nghe, Dạ đi đây tý".
Tưởng nàng đi vệ sinh nên cũng nhất trí. Dạ đi mười phút, hai mươi phút rồi đến cả tiếng không thấy đâu. Tôi và anh Chiêu đành kéo hết đồ đoàn của ba người gom vào một chỗ. Tôi đi tìm Dạ. Tìm cả tiếng không thấy đâu. Thú thật tôi có chui cả vào mấy chỗ tế nhị của nhà ga hàng không hiện đại hạng nhất thế giới ấy tìm mà vẫn biệt vô âm tín.
Tôi đành gặp một chàng cảnh sát to cao, da đen hoành tráng, tôi quên béng cái tờ giấy Nguyễn Thanh Sơn viết cho khi còn ở nhà, một mình tác chiến. Tôi kéo anh cảnh sát da đen ra một chỗ, nói tiếng Anh: “Pho mi a-lô”, anh ta hỏi lại: “Pho mi a-lô?”, tôi gật đầu: “Pho mi a-lô”. Hỏi qua hỏi lại mấy lần anh ta không hiểu. Tôi nghĩ, có khi cha này không biết tiếng Anh. Rõ ràng ý mình nói “pho mi” là “cho tôi”, còn “a-lô” thì ai chả hiểu là… là gọi loa, “Alô, Alô” ai chả hiểu.
Đôi co một lúc anh ta kéo tôi theo vào một trạm cảnh sát gần đó. Anh ta hội ý gì đó với đồng nghiệp một tý rồi ra nói với tôi một tràng dài tiếng Anh. Tôi nghe rất chăm chú nhưng không hiểu. Hình như tôi cũng thông minh nên tôi nói: “Ai em Việt Nam mi”. Anh ta mừng quá nói gì đó nhưng tôi cũng chỉ hiểu được rằng, anh cứ ngồi chờ đấy. Một lúc sau anh ta đưa đến trước mặt tôi một người phụ nữ Việt Nam.
Chị ta hỏi: “Chú cần gì ạ”. Tôi trình bày hoàn cảnh, rằng đoàn chúng tôi có ba người thì thất lạc mất một. Cô ta hỏi tên người lạc, đặc điểm, tôi tả Dạ nhỏ nhắn xinh đẹp tuy có hơi ngơ ngơ một tý vì cô ta là nhà thơ. “Chị có biết nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ nổi tiếng của Việt Nam không?”.
Mặt cô ta không hề có chút phản ứng, biểu cảm gì. Cô ta chỉ cái ghế gần đó bảo chú chờ tí. Một lúc, sau khi nghe điện thoại, cô ta nói: “Bà Lâm Thị Mỹ Dạ đã bay Boston chuyến…”. Tôi ngớ người. Dạ bỏ hết đồ đoàn lại cho chúng tôi mà đi sao? Sao lại có thể như thế được? Có chuyện gì đây?
Chúng tôi phán đoán đủ đường, nhưng đều là đoán mò, đành chấp nhận đi tìm một người Việt Nam trong rừng người Mỹ kia, nhờ họ chỉ giúp chỗ xếp hàng cho chuyến bay sau… Tôi thật sự trong tâm trạng quá hoang mang.
Cả đêm ấy tôi và anh Chiêu ngồi ghế ở phòng chờ toan tính. Anh Chiêu thì chén hết cái bánh chưng to tướng mang theo. Còn tôi, tôi đi loanh quanh lang thang cho hết đêm, cũng đủ khả năng xem họ đi lại mua bán ăn uống thế nào, gần sáng cũng mua được cho mình một ly café Mỹ nhạt tèo nhưng nóng hổi…