Vay của Chính phủ tập trung trong nước, giảm rủi ro khi thị trường quốc tế nhiều biến động
UBTVQH cho ý kiến về báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước năm 2021 |
Vay của Chính phủ đạt hiệu quả, tập trung chủ yếu vào vay trái phiếu Chính phủ (TPCP) trong nước. |
Theo Báo cáo quyết toán NSNN năm 2021 của Chính phủ trình Quốc hội, dự toán tổng mức vay của NSNN là 608.569 tỷ đồng; quyết toán là 455.927 tỷ đồng, giảm 152.642 tỷ đồng (25,1%) so với dự toán.
Trong đó, đối với NSTW, dự toán vay là 579.772 tỷ đồng, bao gồm 318.870 để bù đắp bội chi và 260.902 tỷ đồng để trả nợ gốc; quyết toán vay là 449.516 tỷ đồng, bao gồm 211.650 để bù đắp bội chi và 237.866 tỷ đồng để trả nợ gốc, giảm 130.256 tỷ đồng (22,4%) so với dự toán. Thực tế đã vay là 392.389 tỷ đồng (trong đó, vay nước ngoài là 24.176 tỷ đồng, phát hành TPCP là 318.213 tỷ đồng, vay ngân quỹ nhà nước (NQNN) là 50.000 tỷ đồng), còn thấp hơn số quyết toán.
Trong quá trình điều hành vay, Bộ Tài chính luôn theo dõi sát sao tình hình thị trường, tiến độ thu chi NSNN để đảm bảo mức vay phù hợp với nhu cầu chi và giảm số vay khi thu NSNN đạt khá và tiến độ chi đầu tư công còn chậm.
Đối với vay trong nước qua phát hành TPCP, kế hoạch phát hành TPCP đầu năm là 373.000 tỷ đồng; căn cứ dự kiến tình hình thu, chi và giải ngân vốn đầu tư công, Bộ Tài chính đã điều chỉnh giảm 49.000 tỷ đồng, tương đương 13% so với kế hoạch, còn 324.000 tỷ đồng. Thực tế thực hiện là 318.213 tỷ đồng/324.000 tỷ đồng kế hoạch.
Các chỉ tiêu trong công tác phát hành TPCP cũng cơ bản đều đáp ứng các mục tiêu Quốc hội đề ra như: kỳ hạn phát hành đa dạng, linh hoạt, đáp ứng nhu cầu huy động vốn và phát triển thị trường TPCP, trong đó kỳ hạn phát hành trong năm đều từ 5 năm trở lên (92% khối lượng TPCP phát hành có kỳ hạn từ 10 năm đến 30 năm); kỳ hạn phát hành bình quân TPCP đạt 13,92 năm, cao hơn mục tiêu từ 9 - 11 năm tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội. Danh mục nợ TPCP tiếp tục được cải thiện một cách hiệu quả, với thời gian đáo hạn bình quân đạt 9,27 năm, giúp NSNN không gặp rủi ro khi phải bố trí nguồn trả nợ trong ngắn hạn. Lãi suất phát hành TPCP bình quân năm 2021 là 2,3%/năm, thấp hơn mức bình quân của các năm trước.
Với kết quả đó, trong năm 2022, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s đã đánh giá cao công tác quản lý ngân sách, quản lý nợ của Chính phủ và nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng Ổn định; S&P Global Ratings nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam từ mức BB lên mức BB+, triển vọng Ổn định.
Bên cạnh đó, để giảm chi phí vay của NSTW và nâng cao hiệu quả quản lý NQNN, bên cạnh các nguồn vay khác, Bộ Tài chính cũng sử dụng nguồn NQNN tạm thời nhàn rỗi để cho NSTW vay, đảm bảo tổng các nguồn vay này trong phạm vi tổng mức vay do Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ quyết định. Tuy nhiên, nguồn NQNN đều đã được gắn với từng nhiệm vụ chi cụ thể theo kế hoạch như: nguồn kinh phí chi đầu tư công chưa giải ngân, nguồn thực hiện chính sách cải cách tiền lương chưa thực hiện... nên mang tính chất tạm thời nhàn rỗi “ngắn hạn” và chỉ nên sử dụng cho NSTW vay với khối lượng và thời gian phù hợp. Thực tế năm 2021, Bộ Tài chính đã cân đối nguồn NQNN cho NSTW vay bù đắp bội chi là 50.000 tỷ đồng.
Nguồn NQNN được tập trung toàn bộ tại Ngân hàng Nhà nước. Trong đó, nguồn NQNN tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng được ưu tiên cho NSTW vay, phần còn lại mà NSNN chưa có nhu cầu vay được gửi có kỳ hạn tại các NHTM an toàn cao theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước. Phương thức thực hiện theo nguyên tắc đấu thầu cạnh tranh lãi suất, đảm bảo công khai, minh bạch, an toàn, hiệu quả theo quy định và phù hợp với thông lệ chung của các nước trên thế giới. Thông qua hoạt động quản lý NQNN theo chế độ quy định, đến nay Bộ Tài chính đã tạo thêm nguồn thu và thực hiện nộp NSNN. Đến nay, KBNN đã nộp NSNN 19.100 tỷ đồng từ nguồn thu hoạt động quản lý NQNN, trong đó riêng năm 2021 là 2.000 tỷ đồng.