Huyết mạch kinh tế trong dòng chảy lịch sử
Trong dòng chảy lịch sử ấy, Ngành NH nhanh chóng hòa nhập, đổi mới và phát triển, hoàn thiện về mô hình tổ chức, thể chế pháp lý, công nghệ và dịch vụ NH khơi thông huyết mạch vốn trong phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
>> Bài 1: Nặng gánh hai vai một thời khói lửa
Bài 2: Từ mô hình hai cấp đến sân chơi hội nhập
Công tác điều hành CSTT tiếp tục có những bước hoàn thiện hướng tới mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ, hỗ trợ tạo đà tăng trưởng cho nền kinh tế |
Bước chuyển mình lịch sử
Ngày 26/3/1988 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 53/HĐBT với định hướng cơ bản là “chuyển hẳn hệ thống NH sang hoạt động kinh doanh”.
Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước thông qua 2 Pháp lệnh NH (Pháp lệnh NHNN Việt Nam và Pháp lệnh NH, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống NH Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp. Trong đó lần đầu tiên đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân biệt rạch ròi.
NHNN thực thi nhiệm vụ quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và NH; Thực thi nhiệm vụ của một NHTW - là NH duy nhất được phát hành tiền; Là NH của các NH và là NH của Nhà nước; NHTW là cơ quan tổ chức việc điều hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính sách điều hành cụ thể đối với hệ thống các NH cấp 2. Cấp NH kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ NH trong toàn nền kinh tế quốc dân do các Định chế tài chính NH và phi NH thực hiện.
Từ đây, hệ thống NH bắt đầu quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, căn bản và toàn diện phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Đảng, Nhà nước. Bên cạnh 4 NHTM quốc doanh hàng loạt các NH chuyên doanh cấp 2 với các loại hình sở hữu khác nhau ra đời như NHTMCP, NH liên doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của NH nước ngoài, Hợp tác xã tín dụng, Quỹ tín dụng nhân dân, Công ty tài chính, Công ty cho thuê tài chính.
Trong giai đoạn này, NHNN đã thực hiện chính sách lãi suất dương, kết hợp sử dụng các công cụ gián tiếp với công cụ kiểm soát trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ; hình thành các thị trường tiền tệ; bước đầu hiện đại hóa công nghệ và tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho việc vận hành hệ thống NH mới. Vốn tín dụng được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế và đạt mức tăng trưởng bình quân 36%/năm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng trong nhiều năm.
Quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (IMF, WB, ADB) được tái lập và khơi thông đã góp phần dẫn dòng đầu tư quốc tế vào phát triển kinh tế đất nước.
Năm 1997, Quốc hội thông qua Luật NHNN Việt Nam và Luật Các TCTD, tạo nền tảng pháp lý căn bản và mạnh mẽ hơn cho hệ thống NH tiếp tục đổi mới hoạt động phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. Chính sách tiền tệ linh hoạt của NHNN trong giai đoạn này đã góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997.
Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là cơ chế điều hành lãi suất tiếp tục hoàn thiện góp phần giữ được các cân đối kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế. Hệ thống các TCTD được chấn chỉnh, củng cố, từng bước xử lý nợ tồn đọng và nâng cao năng lực tài chính. Công nghệ NH có bước phát triển mạnh mẽ.
Hệ thống thanh toán điện tử liên NH được đưa vào vận hành chính thức từ tháng 5/2002, các dịch vụ NH điện tử xuất hiện (eBanking, Internet banking...). NHNN tham gia đàm phán gia nhập WTO và tích cực triển khai các cam kết về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực NH.
Phép thử và những bước đột phá
Ngày 11/1/2007, Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của WTO. Những vận hội mới mở ra cho sự phát triển đất nước chưa hấp thụ được bao nhiêu thì kinh tế trong nước lại đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 với nhiều tác động rất tiêu cực.
Thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt, từ ưu tiên kiềm chế lạm phát cao năm 2008 sang tập trung ngăn chặn suy giảm kinh tế năm 2009, khôi phục đà tăng trưởng năm 2010 và kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế năm 2011, 2012.
Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XII thông qua Luật NHNN Việt Nam và Luật Các TCTD đã tạo nền tảng pháp lý phù hợp hơn để tiếp tục đổi mới hoạt động NH đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Tuy nhiên, bước vào kế hoạch phát triển kinh tế 2011 – 2015, kinh tế Việt Nam đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nguy cơ tụt hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại từ những yếu kém tích tụ qua nhiều năm của nội tại nền kinh tế.
Trước bối cảnh đó, cùng với thông điệp thể hiện sự thay đổi trong đột phá về tư duy điều hành chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ từ tập trung cao cho tăng trưởng chuyển sang ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu để nền kinh tế tăng trưởng bền vững hơn, tại Hội nghị toàn ngành NH tháng 9/2011, vị Tư lệnh Ngành đã nhận diện những vấn đề vừa có tính cấp bách vừa có tính căn cơ lâu dài và khẳng định quyết tâm triển khai thực hiện.
Công tác điều hành CSTT tiếp tục có những bước hoàn thiện hơn nữa trong hướng tới mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ, hỗ trợ tạo đà tăng trưởng cho nền kinh tế. Đặc biệt, cơ chế điều hành đã chuyển từ điều hành bị động sang điều hành chủ động, dẫn dắt thị trường. Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay giảm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, ổn định thị trường tiền tệ.
Tăng trưởng tín dụng gắn với chất lượng và hiệu quả. Từ 2011-2014, tín dụng tăng bình quân khoảng 12,6%/năm, thấp hơn rất nhiều so với mức 33,3%/năm của giai đoạn 2006-2010, nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn đạt bình quân khoảng 5,7%/năm không thấp hơn nhiều so với mức bình quân 7% của giai đoạn 2006-2010 đã cho thấy chất lượng và hiệu quả tín dụng đã được nâng cao đáng kể.
Các công cụ của CSTT được phối hợp nhịp nhàng và hữu hiệu như quản lý trần lãi suất cho vay, sử dụng dự trữ bắt buộc, công cụ tái cấp vốn để hướng dòng vốn tín dụng tập trung cho sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên, hỗ trợ tích cực cho tái cơ cấu nông nghiệp, phát triển thủy sản, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp xuất khẩu.
Các chương trình tín dụng chính sách được triển khai tích cực, hiệu quả, góp phần quan trọng giúp Việt Nam hoàn thành sớm mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo của Liên hợp quốc. Những nỗ lực trên của ngành NH đã được Quốc hội ghi nhận, đánh giá là chính sách được triển khai rộng rãi nhất, tác động trực tiếp và mang lại hiệu quả thiết thực, là một trong những điểm sáng trong các chính sách giảm nghèo…
Với việc thường xuyên chủ động đưa ra các cam kết duy trì ổn định tỷ giá trong từng năm để định hướng thị trường, kiểm soát kỳ vọng, giúp doanh nghiệp chủ động trong kế hoạch sản xuất kinh doanh và thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài, từ cuối 2011 đến nay, thị trường ngoại hối và tỷ giá ổn định, thị trường ngoại tệ tự do bị thu hẹp.
Vị thế và lòng tin vào VND ngày càng được củng cố, tình trạng “đô la hóa” đã giảm mạnh, NHNN mua được một lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước lên mức kỷ lục. Tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế đã từng bước được ngăn chặn cùng khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng được thiết lập và triển khai từ cuối năm 2011. Đến nay, công tác quản lý thị trường vàng cơ bản đạt được mục tiêu Quốc hội và Chính phủ đã đề ra
Ngành NH trở thành điểm sáng tái cơ cấu và xử lý nợ xấu với việc quyết liệt, đồng bộ triển khai các giải pháp thực hiện Đề án 254 cơ cấu lại hệ thống các TCTD. NHNN đã giảm 17 TCTD, kiểm soát và từng bước xử lý các TCTD yếu kém, đảm bảo ổn định, an toàn hệ thống; không để đổ vỡ, khủng hoảng NH; tài sản của Nhà nước, nhân dân được bảo đảm. Kỷ cương, kỷ luật trên thị trường tiền tệ và trong lĩnh vực NH được tăng cường, tạo môi trường kinh doanh an toàn, lành mạnh. Các tổ chức tài chính, tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế đánh giá cao nỗ lực và kết quả tái cơ cấu.
Những thành công này đã góp phần củng cố quan hệ và nâng cao vị thế NHNN tại các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế; vận động hiệu quả nguồn vốn ưu đãi, hỗ trợ kỹ thuật của WB/ADB và các nhà tài trợ quốc tế cho phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo; tích cực hội nhập sâu rộng hơn vào kinh tế thế giới.
Để rồi nhìn lại thành quả 5 năm qua cũng như cả một diễn trình lịch sử trước đó những thành tựu của ngành NH đã được Đảng, Quốc hội, Chính phủ và cử tri cả nước ghi nhận và đánh giá cao; góp phần đáng kể vào bước ngoặt thành công của Việt Nam khi đồng loạt được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín trên thế giới đã nâng hạng xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam, qua đó nâng cao uy tín của đất nước trên trường quốc tế.