Khắc phục tồn tại để phát triển
Theo đó, loại hình này đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo…
Cụ thể, về lao động, hàng năm tạo thêm trên nửa triệu lao động mới; sử dụng tới 51% lao động xã hội và đóng góp hơn 40% GDP…
Các DNNVV sẽ hội nhập một cách sòng phẳng |
Số tiền thuế và phí mà các DNNVV tư nhân nộp cho Nhà nước đã tăng 18,4 lần sau 10 năm. Sự đóng góp đó đã hỗ trợ lớn cho việc chi tiêu vào các công tác xã hội và chương trình phát triển khác.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được nêu trên, khối DNNVV còn tồn tại một số hạn chế cố hữu làm chậm quá trình phát triển của chính mình, và khó tiếp cận vốn vay. Chính phủ đã triển khai các chính sách, chương trình hỗ trợ vốn cho các DNNVV như bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ tín dụng.
Nhưng trên thực tế mới có một số lượng nhỏ các DN được thụ hưởng. Phần lớn các DN còn lại đều gặp các trở ngại: 55% là do thủ tục vay (hồ sơ vay vốn phức tạp, 50% gặp trở ngại về thế chấp (thiếu tài sản có giá trị đủ cao để thế chấp, ngân hàng không đa dạng hóa tài sản thế chấp…); 80% phàn nàn về lãi suất, cũng như các điều kiện vay vốn hiện nay chưa phù hợp.
Do vậy, đối với họ, khó khăn nhất vẫn là thiếu vốn cho sản xuất, kinh doanh. Hiện nay, chỉ có 30% các DNNVV tiếp cận được vốn từ ngân hàng, số còn lại sử dụng vốn tự có hoặc vay từ nguồn khác (trong số này có nhiều DN vẫn phải chịu vay ở mức lãi suất cao 15 - 18%).
Tiếp đến là về công nghệ. DNNVV được kỳ vọng là có thể đóng góp vào sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ, hoặc đóng vai trò là nhà cung ứng dịch vụ, sản phẩm đầu vào cho các DN nước ngoài hoặc các dự án lớn của Nhà nước. Quá trình này sẽ thúc đẩy cho các DNNVV trở thành trụ cột để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ.
Tuy nhiên hiện nay, đa số DNNVV Việt Nam chưa tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, trình độ khoa học công nghệ và năng lực đổi mới trong DNNVV của Việt Nam còn thấp. Số lượng các DN hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ còn rất ít. Số lượng nhà khoa học, chuyên gia làm việc trong các DN chỉ chiếm 0,025% trong tổng số lao động làm việc trong khu vực DN.
Khoảng 80 - 90% máy móc và công nghệ sử dụng trong các DN của Việt Nam là nhập khẩu và 76% từ thập niên 1980 - 1990, 75% máy móc và trang thiết bị đã hết khấu hao.
Sau nữa là hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp, hàng tồn kho lớn. Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, hầu hết giá nguyên liệu đầu vào của các ngành đều tăng, trong khi giá bán sản phẩm không tăng.
Đối với những ngành có tỷ lệ nội địa hóa thấp, phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nguyên liệu, phụ kiện nhập khẩu (ví dụ, sản xuất dây và cáp điện, điện tử, cơ khí…), thì sẽ bị ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh. Khi sức tiêu thụ của thị trường giảm sút, nhiều DN phải chủ động thu hẹp sản xuất, hoạt động cầm chừng.
Hàng tồn kho trong một số ngành hàng tăng cao như bất động sản, vật liệu xây dựng, nông sản… Trong khi đó, chi phí cho chế biến, bảo quản trong một số ngành có xu hướng tăng.
Một vấn đề nữa là sự bất cập về trình độ quản lý và chất lượng nguồn lao động trong các DNNVV. Theo số liệu thống kê, có tới 55,63% số chủ DN có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ DN có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Điều đáng chú ý là cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị DN, về pháp luật trong kinh doanh...
Về lực lượng lao động, có tới 75% lực lượng lao động trong các DNNVV chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Cùng với đó, việc thực hiện chưa đầy đủ các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đã làm giảm đi chất lượng công việc trong khu vực DNNVV, và họ càng rơi vào vị thế bất lợi.
Cuối cùng là năng lực tiếp cận với các chính sách pháp luật và thông lệ quốc tế trong kinh doanh. Hiện các DNNVV còn chưa tiếp cận một cách hiệu quả trong quá trình hội nhập quốc tế. Để từng bước phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam gia nhập WTO, chúng ta đã xây dựng và ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật trong kinh doanh.
Tuy nhiên, năng lực tiếp cận với các văn bản và hệ thống chính sách pháp luật của DNNVV còn nhiều hạn chế. Việc này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan, mà phần lớn là do bản thân các DN chưa thực sự chủ động tìm hiểu.
Đây là vấn đề rất đáng lưu tâm, đòi hỏi cả Nhà nước và DN phải có những giải pháp mạnh mẽ nhằm, tăng cường năng lực tiếp cận với các thông tin, chính sách pháp luật và thông lệ quốc tế trong kinh doanh cho DN.
Chỉ khi các DNNVV giải quyết thấu đáo được những hạn chế trên, thì mới có thể tạo cơ sở vững chắc để hội nhập một cách hoàn toàn “sòng phẳng” với các nước trong khu vực cũng như trên toàn cầu, và phát triển bền vững một cách có chiều sâu.