Không nên quy định “cứng” lãi phạt trong luật
Trong các quan hệ hợp đồng dân sự, việc không hoàn trả tiền, chậm trả hay trả không đầy đủ của bên có nghĩa vụ không chỉ vi phạm trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mà còn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối tác.
Liên quan đến nội dung này, Điều 305, Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS) có quy định: Trong trường hợp bên có nghĩa vụ mà chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố... Bên cạnh đó, Điều 474 còn có quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay, cụ thể: Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn...; Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố...; Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố...
Như vậy, theo quy định của 2 Điều luật đã dẫn nói trên, có thể nhận thấy, bên có nghĩa vụ nhưng chậm trả tiền, hoặc bên vay không trả nợ, trả không đầy đủ thì đều có nguy cơ phải chịu nghĩa vụ thanh toán lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố.
Về vấn đề này, một số ý kiến cho rằng, trong trường hợp hợp đồng không quy định về trả lãi đối với số tiền chậm trả thì không có cơ sở thực hiện việc tính lãi. Số ý kiến khác cho rằng, cần phải tính lãi phạt đối với số tiền chậm trả kể từ ngày chậm trả đến một thời điểm mà tranh chấp được giải quyết. Cũng có một số trường hợp thực tế khi có tranh chấp, các cơ quan xét xử đã tách phần tranh chấp liên quan đến trả lãi này để chờ hướng dẫn xét xử chung... Tuy nhiên, quy định tại Khoản 5, Điều 474 (tương ứng là Khoản 5, Điều 489 dự thảo BLDS (sửa đổi), việc trả lãi là bắt buộc.
Thực tế, việc tính lãi khoản nợ do vi phạm nghĩa vụ của bên vay và được thỏa thuận trong hợp đồng là phù hợp, không nên quy định “cứng” trong luật. Trường hợp cần thiết và được các bên đồng ý áp dụng quy định về tính lãi đối với khoản nợ gốc và nợ quá hạn thì cần đảm bảo hài hòa được lợi ích của tất cả các bên. Nếu bên có nghĩa vụ thanh toán không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thì nghĩa vụ chậm trả có thể cho phép được tính gộp cả số tiền nợ gốc và nợ lãi chưa được trả.
Tuy nhiên, cần quy định cụ thể hơn thứ tự ưu tiên giữa “có thỏa thuận khác”, “luật có quy định khác” và “bằng 150%” theo hướng ưu tiên thỏa thuận giữa các bên và khi không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì áp dụng “mức 150% lãi suất trong hạn”.
Việc quy định tham chiếu đến “lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay” của BLDS 2005 là không phù hợp với thực tiễn về việc xác định và công bố lãi suất cơ bản của NHNN. Để trả lại tính chất thị trường cho các giao dịch dân sự, việc sửa đổi BLDS có thể nghiên cứu, xây dựng cơ chế xác định lãi suất tham chiếu cho các giao dịch dân sự dựa trên lãi suất huy động của một/một nhóm NHTM trên thị trường (đảm bảo được các yêu cầu về số liệu cập nhật, thời hạn vay, đối tượng vay...) hoặc dựa trên lãi suất đấu thầu trái phiếu Kho bạc Nhà nước để xây dựng mức lãi suất phù hợp với diễn biến thị trường, đảm bảo tốt hơn cho việc bảo vệ quyền và lợi ích của tất cả các bên.
Về giới hạn lãi suất, việc cố tình chậm thanh toán hoặc không trả nợ hay trả nợ không đầy đủ của bên có nghĩa vụ có nguy cơ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên kia. Do vậy, trường hợp tính lãi do việc vi phạm nghĩa vụ thanh toán cần phải đảm bảo số lãi đó phải cao hơn lãi suất trong hạn mà bên có nghĩa vụ đang phải trả, tránh trường hợp do các ràng buộc của quy định pháp luật về lãi suất mà bên có nghĩa vụ cố tình chậm trả hoặc không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ để hưởng được mức “lãi suất phạt” thực tế thấp hơn lãi suất trong hạn đang phải trả làm thiệt hại quyền lợi của bên cho vay.
Trong bất kỳ trường hợp nào, các đề xuất sửa đổi của BLDS về các nội dung tính lãi nợ quá hạn nên thể hiện bằng một khoảng giá trị (tối đa và tối thiểu) để các bên lựa chọn, thỏa thuận áp dụng chứ không nên đưa ra một mức tính lãi cố định, bắt buộc các bên áp dụng một cách cứng nhắc.