Luật thuế phải có tính dự báo cao để tránh thất thu
Hà Nội công khai danh sách 125 đơn vị nợ thuế, phí |
Thảo luận tại hội trường về dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi), đại biểu K’sor Hà (Gia Lai) cùng nhiều đại biểu khác cho rằng, một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ từ nền kinh tế quốc dân. Đóng thuế vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi của mỗi công dân đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Mỗi một giai đoạn phát triển của đất nước với sự đi lên của nền kinh tế, thuế luôn giữ vai trò là công cụ rất quan trọng để chính quyền can thiệp vào hoạt động nội thương và ngoại thương. Bởi thế Dự án Luật Quản lý thuế sửa đổi lần này cần quy định chi tiết các khoản điều mục nhằm thể hiện rõ vai trò quản lý của Nhà nước trong hoạt động phòng chống thất thu thuế, mặt khác phải thể hiện được chính xác thuế “đẹp”, luật phải có tính dự báo cao để tránh phải sửa sau mỗi nhiệm kỳ của Quốc hội.
Bên cạnh đó, đại biểu K’sor Hà cũng đề nghị việc xây dựng luật phải thể hiện được chính sách nhằm khuyến khích các DN đầu tư vào công nghệ cao, vào giống cây, con mới; các trung tâm đào tạo và chuyển giao công nghệ cao chuyển giao giống cây con mới vào nông nghiệp, lâm nghiệp ở những vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa, vùng miền núi để những địa phương này thoát nghèo, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế. Ngoài ra, chính sách thuế phòng vệ cũng phải đảm bảo tính hợp lý để bảo vệ sản xuất trong nước phù hợp với các cam kết song phương và đa phương đã ký kết, nhất là với tình hình hiện tại chúng ta đã tham gia CPTPP.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vào quản lý thuế |
Một số ý kiến khác thì cho biết, những năm qua nước ta bị thất thu thuế rất nhiều mà chủ yếu là từ các DN. Dù biết DN lách luật trốn thuế, nhưng cơ quan thuế phải thanh tra, kiểm tra mới được phát hiện, đến khi đã phát hiện xong thì phải đợi cả quá trình dài mới ban hành được các thông báo chế tài xử lý. Song chỉ cần một câu DN hoạt động lỗ vốn, hoặc vô ý quên nộp, hoặc vô ý nhầm thuế là có thể thoát thân. Đó là biểu hiện lỏng lẻo của pháp luật.
Đại biểu Mai Thị Ánh Tuyết (An Giang) thì cho rằng, việc xóa nợ và khoanh nợ thuế là giải pháp được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là quy định cần tránh trục lợi, lạm dụng chính sách gây thất thoát NSNN. Đề nghị của Chính phủ về việc xóa tiền nợ đất trên 10 năm là không phù hợp vì có thể ẩn chứa nhiều phức tạp nhưng chưa được làm rõ. Do đó việc xóa nợ, khoanh nợ thuế theo quy định của dự thảo luật còn chung chung và thiếu căn cứ. Chính phủ cần đánh giá, làm rõ bản chất để làm cơ sở và có những cơ chế thích ứng cho từng loại và cụ thể hóa cho từng loại để tránh lạm dụng chính sách, gây thất thoát NSNN.
Cùng với đó, đại biểu Tuyết cũng đề nghị Chính phủ cần tăng cường hoạt động kiểm tra chéo giữa các cơ quan chức năng như cơ quan thuế, cơ quan hải quan, cơ quan đăng ký kinh doanh, NHTM trong việc thực hiện chính sách xóa nợ, nhằm bảo đảm công khai minh bạch, công bằng. Hạn chế các trường hợp nợ thuế và nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của người nộp thuế; giảm tình trạng nợ thuế, bổ sung quy định bắt buộc phối hợp với các cơ quan quản lý thuế với cơ quan có liên quan trong quản lý người nộp thuế như cơ quan thuế, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Kho bạc Nhà nước, Công an…
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Tạo (Lâm Đồng) thì cho rằng, việc tiếp tục sửa đổi, bổ sung toàn diện trong công tác quản lý thuế theo xu hướng hiện đại hơn, hoàn thiện hơn, phù hợp với các chuẩn mực của quốc tế với mục đích làm sao để Luật Quản lý thuế lần này được triển khai một cách đồng bộ hơn từ thuế, quản lý thuế đến các luật thuế, sắc thuế như thuế thu nhập DN… là rất cần thiết.
Tuy nhiên, đại biểu Tạo cũng cho rằng, điều ông và cử tri mong muốn thuế luôn là nguồn thu chính, chủ lực, bảo đảm cho nguồn chi tiêu cho ngân sách quốc gia bằng những cơ chế, chính sách phù hợp trong việc tạo nguồn thu, quản lý nguồn thu và nuôi dưỡng, phát triển nguồn thu một cách ổn định, bền vững. “Cải cách hệ thống thuế cần phải có cơ chế, chính sách đồng bộ, thống nhất và phải bảo đảm sự minh bạch, công khai, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện”, đại biểu kiến nghị.
Trước đó, trình bày Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi), Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng nêu rõ: Luật Quản lý thuế được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007, đã được sửa đổi, bổ sung ba lần vào các năm 2012, 2014 và 2016. Sau hơn 10 năm thực hiện, Luật Quản lý thuế đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, công tác quản lý thuế nói chung và quy định pháp luật về quản lý thuế nói riêng cũng có những hạn chế bất cập nhất định như: Việc thường xuyên bổ sung, sửa đổi văn bản luật đã ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế; một số văn bản pháp luật khác cũng có nội dung quy định về quản lý thuế, vì vậy chưa tạo ra sự thống nhất trong các văn bản quy định pháp luật. Phạm vi điều chỉnh của Luật Quản lý thuế chưa bao quát hết các khoản thu khác trong NSNN, mặt khác hoạt động kinh doanh của khu vực kinh tế cá thể, hộ gia đình hoặc khu vực kinh tế phi chính thức chưa được quy định đầy đủ...
Qua đánh giá thực trạng việc thực thi Luật Quản lý thuế và qua nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, Chính phủ thấy rằng việc sửa đổi Luật Quản lý thuế ở thời điểm hiện nay là hết sức cần thiết, nhằm hoàn thiện thể chế quản lý thuế, thực hiện cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, tạo điều kiện phát triển các thành phần kinh tế; tiếp cận tới các chuẩn mực và thông lệ quốc tế để góp phần thu hút đầu tư trong nước, nước ngoài, tạo cơ sở để xây dựng hệ thống quản lý thuế hiện đại trong điều kiện hội nhập; tạo hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin cho công tác quản lý thuế, trong đó có việc áp dụng rộng rãi phổ biến quản lý thuế điện tử, giao dịch điện tử công khai, minh bạch; khắc phục những hạn chế, bất cập hiện nay đồng thời rà soát và thống nhất giữa Luật Quản lý thuế và các văn bản pháp luật có liên quan.