Ngân hàng châu Âu cứu nền kinh tế
Phương pháp kích thích kinh tế
Phương pháp ông Mario Draghi tuyên bố ngày 22/1/2015 vừa qua cũng chỉ là những biện pháp nhằm kích thích kinh tế, mà có người cho rằng đây là một liều thuốc mạnh nhằm vực dậy kinh tế châu Âu đã bị trì trệ từ cuộc khủng hoảng năm 2008 vừa qua. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu từ Mỹ, nhưng kinh tế Mỹ đã được vực dậy, bắt đầu tăng trưởng mạnh vào ba tháng cuối năm 2014, tăng trưởng Mỹ là 5%, tỷ lệ thất nghiệp xuống thấp.
Về kinh tế, người ta nói đến nhiều trường phái, nhưng thực ra chỉ có 2 trường phái chính:
Trường phái Kinh tế Cổ điển hay tự do (classique ou libérale) của Adam Smith (1723 – 1790). Theo trường phái này thì kinh tế cũng như tất cả những sinh hoạt bình thường của con người đều đi theo một trật tự tự nhiên như có nắng thì có mưa, như có ngày thì có đêm. Kinh tế cũng vậy, theo luật tự nhiên cung - cầu của thị trường.
Như việc một hãng A sản xuất trên thị trường, nếu số hàng nhiều quá, thì đi đến chỗ giá rẻ, một khi giá rẻ, thì người tiêu dùng sẽ mua nhiều, đi đến chỗ hai đường biểu diễn “cung - cầu” sẽ gặp nhau, cho ra giá bình quân trên thị trường.
Vì đi theo luật tự nhiên như vậy, nên trường phái kinh tế tự do hay cổ điển chủ trương nhà nước không nên can thiệp vào đời sống kinh tế. Tuy nhiên một hiện tượng kinh tế lớn xảy ra là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào năm 1929 – 1930.
Quan sát hiện tượng kinh tế thị trường vào những năm này, John M. Keynes (1883 – 1946) thấy rằng luật cung - cầu tự nhiên không tuân hành như người ta nghĩ.
Chẳng hạn thị trường lao động, số người thất nghiệp tăng, giá lương giảm, thế mà những hãng xưởng vẫn không thuê thêm thợ. Từ đó ông chủ trương cần phải có sự can thiệp của chính phủ để kinh tế trở lại bình thường, theo luật tự nhiên. Chính vì vậy mà người ta đã gọi tư tưởng của Keynes là Tân Cổ điển hay tân tự do và chính Keynes cũng tự nhận như vậy.
Bởi, ông chủ trương có sự can thiệp, nhưng là một sự can thiệp có giới hạn để điều chỉnh kinh tế trở thành tự nhiên. Tư tưởng kinh tế của Keynes được tóm lược trong 2 lĩnh vực:
Lĩnh vực ngân sách quốc gia: Chính quyền có thể chi tiêu quá 3% ngân sách quốc gia đã định và dùng tiền này để can thiệp vào đời sống kinh tế. Chẳng hạn ngân sách của một quốc gia là 100 tỷ USD thì chính quyền có thể chi tiêu 103 tỷ USD. Với 3 tỷ USD thêm này chính quyền có thể mở mang đường xá, xây trường học… tạo thêm việc làm, giúp khả năng mua bán của dân tăng, để kích thích kinh tế.
Lĩnh vực tiền tệ: Chính quyền, qua ngân hàng nhà nước trung ương, có thể làm cho số lượng tiền ở trên thị trường kinh tế tăng hay giảm để kích thích kinh tế hay giảm lạm phát hoặc tránh giảm phát.
Tư tưởng kinh tế của Keynes đã được Tổng Thống Mỹ Franklin Roosevelt (1932 – 1945) áp dụng đầu tiên và đã thành công. Và có thể nói, từ đó đến nay phần lớn những quốc gia đều áp dụng tư tưởng của Keynes, ngoại trừ những nước chủ trương nhà nước hoàn toàn can thiệp vào đời sống kinh tế.
Chính Tổng thống Obama cũng đã áp dụng tư tưởng của Keynes để phục hồi kinh tế Mỹ qua cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 vừa qua và đã thành công, qua chính sách vừa kích cung như việc giúp đỡ hãng xe Général Motor, đang bị phá sản, trở lại bình phục, vừa kích cầu giúp những gia đình có thể trả góp tiền nhà bằng cách thương thuyết giữa họ và ngân hàng, giảm lãi suất hay gia hạn tiền nợ.
Kinh tế Mỹ ngày hôm nay đã phục hồi và còn tăng trưởng. Tăng trưởng vào những ngày cuối năm 2014 lên tới 5%, số thất nghiệp giảm mạnh, ngành địa ốc đã trở lại sinh hoạt bình thường.
Phương pháp của ECB
Kinh tế EU từ năm 2008 đến nay vẫn trì trệ: năm 2014 vừa qua, mức tăng trưởng cao nhất là nước Đức, 3%; nước thứ nhì là Anh với 2%, thứ ba là Pháp với không đầy 1%. Đấy là chưa nói đến một số nước như Hy lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha gần như bị khủng hoảng. Tăng trưởng của EU ở số âm ( – 0,4% năm 2013).
Chính vì Khối châu Âu như vậy, mà ông Draghi tuyên bố dùng 1.140 tỷ Euro để kích thích kinh tế. Có người cho rằng đây là một cuộc tấn công tiền tệ vô tiền khoáng hậu. Thật vậy, những biện pháp mà ông Chủ tịch ECB đề ra cũng nằm trong đường lối của Keynes, nhưng trong chính sách tiền tệ.
Theo đó, ECB bắt đầu từ tháng 3 này sẽ bỏ ra mỗi tháng 60 tỷ Euro, trung bình mỗi ngày 2 tỷ, để mua trái phiếu tư và công, làm như vậy, về kinh tế là giúp những chính phủ, hãng xưởng, tư nhân bán ra trái phiếu để lấy Euro, với Euro này, họ có thể có những hoạt động kinh tế, mua bán thêm hay xây cất hãng xưởng, về mặt tài chính, thì làm cho số lượng tiền trên thị trường tăng thêm, mà người Mỹ gọi là “Quantitative Easing”, xin tạm dịch là “Nới lỏng số lượng”.
Hành động này nhắm 2 mục đích: Giúp những tác nhân kinh tế có thêm tiền để dễ hoạt động và; đồng thời cũng làm cho đồng Euro bớt cao giá so với đồng USD.
Ông Paul Krugman, Giáo sư trường đại học Princeton, Giải Nobel kinh tế năm 2008, có viết một quyển sách đặc biệt cho châu Âu vào năm 2013, mang tựa đề: “Sortez – nous de cette crise Maintenant” (tạm dịch là: Hãy làm cho chúng tôi ra khỏi cuộc khủng hoảng này. Ngay bây giờ), có viết:
Cái gì có thể cứu châu Âu?…: Đó là: Bớt chính sách thắt lưng buộc bụng man dại (austorité sauvage) trong những nước bị nợ; Một liều lượng nhỏ tăng thêm ngân sách trong những nước chủ nợ và; một chính sách tiền tệ mạnh mẽ hơn của ECB nhằm cho phép có một sự lạm phát tương đối hơi cao so với tình trạng giảm phát hiện nay trên toàn cõi châu Âu.
Tuy nhiên để tránh những tai nạn xấu xảy ra, như một quốc gia có thể bỏ ra rất nhiều trái phiếu để mua Euro, thì ông Draghi đã làm ra hai hàng rào ngăn cản. Đó là: Bất cứ quốc gia nào cũng chỉ có thể bán trái phiếu mua Euro vào thuận theo phần đóng góp của mình ở ECB: Đức 25,6%, Pháp 20,1%, Ý 17,5%, Tây Ban Nha 12,6%…
Thêm vào đó còn một hạn chế là nếu có một biến cố tài chính nào xảy ra thì Khối châu Âu chỉ chịu trách nhiệm 20%, 80% còn lại do ngân hàng quốc gia trung ương của nước gây ra biến cố chịu trách nhiệm.
Những người hoan hô, ủng hộ và thận trọng
Những nước hoan hô chính sách tài chính trên phần lớn là những quốc gia phía Nam châu Âu, đang bị chính sách kinh tế thắt lưng buộc bụng trói buộc và ngay cả một số người trước kia thận trọng, như nhà kinh tế Đức Henn Enderlein, người sáng lập ra Viện Jacques Delors, ở Berlin, cũng viết: “Quyết định của ECB là rất tốt.
Tôi chỉ giản tiện hy vọng rằng đó là cái gì và nhất là nước Đức không phải chịu những nguy hiểm. Đồng Euro sẽ hạ giá và điều đó chỉ có lợi cho nước Đức, một nước muốn trở thành vô địch về xuất cảng… Chính sách tăng lượng tiền tệ một cách dễ dàng là một phương thuốc chữa trị cho những kết quả không chắc chắn, nhưng đồng thời cũng là một trong những phương tiện để kích thích tăng trưởng kinh tế.
Phát biểu trong Diễn đàn Kinh tế toàn cầu Davos, ở Thụy Sỹ, vào ngày 22/1, bà Thủ tướng Đức Angela Merkel nói rằng điều quan trọng là những vị lãnh đạo các quốc gia châu Âu nên chú trọng vào việc cải tổ cơ cấu thay vì hy vọng vào chính sách tài chính.
Chính sách tài chính không thể thay thế cơ cấu kinh tế, một quốc gia có một cơ cấu kinh tế xấu, thâm thủng ngân sách quá cao, nợ nhà nước cũng vậy, không có cơ cấu để huấn nghiệp và luật lệ lao động không uyển chuyển, hợp thời, thì dù chính sách tài chính nào chăng nữa cũng không mang đến kết quả.
Tất nhiên chính sách tài chính của ông Draghi sẽ mang lại một số kết quả. Tuy nhiên chúng ta cũng đừng nên quá lạc quan. Trường hợp điển hình là nước Hy Lạp. EU và IMF đã cho nước này vay tới 240 tỷ USD, bằng tổng sản lượng quốc gia, cộng thêm với nước này vay ở những cơ quan tài chính khác, tổng số lên tới 320 tỷ USD. Thế mà kinh tế Hy Lạp vẫn bị khủng hoảng. Tiền bạc không thiếu, nhưng dùng tiền bạc này như thế nào, đó mới là quan trọng.
Vì vậy lời cảnh báo của bà Angela Merkel không phải là không có lý.