Ngành Công Thương: Đổi mới để phát triển
Đổi mới tư duy và nỗ lực hành động | |
Sự thịnh vượng quốc gia đang bị sói mòn bởi cơ chế phân bổ nguồn lực | |
Cần đổi mới chính sách hỗ trợ cơ giới hóa |
Đánh giá của Bộ Công Thương cho biết, giai đoạn 2011-2015, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức và nhiều bất ổn; áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt nhưng tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp bình quân luôn ở mức tốt 13%/năm; tỷ trọng đóng góp của sản xuất công nghiệp và xây dựng trong tăng trưởng GDP chiếm 42-43%; một số ngành công nghiệp có đủ năng lực đáp ứng nhu cầu trong nước, có khả năng cạnh tranh quốc tế.
Tuy vậy, theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh Bộ Công Thương, thời gian qua, tình trạng tụt hậu về khoa học, công nghệ so với các nước phát triển trong khu vực và thế giới vẫn chưa được khắc phục. Việc huy động nguồn lực của xã hội vào hoạt động khoa học, công nghệ còn khó khăn; đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao.
Trong khi đó công nghệ được xem là công cụ chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng và bền vững, là bí quyết để mỗi quốc gia phát triển và khẳng định vị thế trên trường quốc tế trong bối cảnh môi trường quốc tế cạnh tranh ngày càng gay gắt. Thực tế này đang đặt ra yêu cầu bức thiết về đổi mới, phát triển công nghệ, nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tạo được ưu thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Vì vậy, Bộ trưởng yêu cầu hoạt động khoa học, công nghệ của ngành Công Thương trong giai đoạn 2016-2020 cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức, cơ chế quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động và phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các DN FDI đang hoạt động trong nước.
Bên cạnh đó, phải đầu tư phát triển có trọng tâm, trọng điểm cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, đặc biệt trong lĩnh vực thiết kế, chế tạo sản phẩm mới, phân tích, kiểm tra, chứng nhận hợp quy, hợp chuẩn sản phẩm.
Từ nghiên cứu phục vụ xây dựng chiến lược, chính sách phát triển công nghiệp và thương mại, khai thác có hiệu quả các Hiệp định TPP, FTA đã ký kết đến các nghiên cứu phục vụ phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của DN, sản phẩm công nghiệp thuộc các lĩnh vực chuyên ngành như cơ khí, cơ điện tử, thiết bị điện, điện tử và tự động hóa, khai thác và chế biến khoáng sản, hóa chất và công nghệ vật liệu, công nghiệp năng lượng, công nghiệp nhẹ và công nghệ sinh học, hóa dược, công nghiệp môi trường...
Cùng với đó, cần đẩy mạnh hoạt động thông tin, thống kê khoa học và công nghệ, xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và sở hữu trí tuệ.
“Khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, trong Văn kiện Đại hội XII, đã bổ sung vào hai chữ “thực sự” trước cụm từ “là quốc sách hàng đầu”, Đảng ta muốn nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển khoa học, công nghệ, đặt ra yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ của đất nước lên một tầm cao mới, khắc phục những yếu kém trong thời gian qua, coi đây là công việc trọng yếu và thường xuyên.
Điều đó cũng có nghĩa là mọi chủ trương, chính sách phát triển đất nước, phát triển kinh tế - xã hội cũng như bảo vệ Tổ quốc đều phải dựa vào khoa học, công nghệ và thực hiện bằng khoa học, công nghệ; khoa học, công nghệ phải đứng hàng thứ nhất và đi trước một bước trong mọi chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước nói chung và ngành Công Thương nói riêng”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nhấn mạnh.
Được biết, giai đoạn 2016-2020, ngành Công Thương đặt mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp bình quân 13%/năm; giá trị gia tăng công nghiệp đạt 7%/năm; tỷ trọng đóng góp của công nghiệp và xây dựng chiếm 42-43% trong GDP cả nước; tăng trưởng xuất khẩu bình quân 11%/năm.
Để giải quyết được những hạn chế hiện nay, định hướng phát triển công nghiệp trong thời kỳ tới là ưu tiên phát triển và chuyển giao công nghệ đối với các ngành có lợi thế cạnh tranh và công nghệ hiện đại, tiên tiến ở một số lĩnh vực như: chế biến nông, lâm, thủy sản; điện tử, viễn thông; năng lượng mới và tái tạo; cơ khí chế tạo và hóa dược; điều chỉnh phân bố không gian công nghiệp hợp lý nhằm phát huy sức mạnh liên kết giữa các ngành, vùng, địa phương để tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu; phát triển có chọn lọc công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp năng lượng, khai khoáng, luyện kim, hoá chất, công nghiệp quốc phòng.
Cùng với đó là ưu tiên phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, thuộc các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông, công nghiệp dược... phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ; chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch và vật liệu mới đi đôi với áp dụng sản xuất sạch hơn, công nghệ tiết kiệm năng lượng, công nghệ sạch, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển công nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường.