Thách thức và quyết tâm trong thực hiện các nguyên tắc của Basel II
Ngân hàng và đích đến Basel II | |
Ngân hàng tự làm Basel II | |
Cơ hội tăng vốn cho ngân hàng | |
Áp dụng Basel II: Phân hoá ngân hàng sẽ ngày càng rõ nét |
Những thách thức phải vượt qua
Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính - ngân hàng, Thông tư 41 quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% đã tiến gần đến quy định quản lý rủi ro của Basel II, khi quy định về tỷ lệ an toàn vốn là một trong những điểm chính của Basel II.
Thông tư 41 quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% đã tiến gần đến quy định quản lý rủi ro của Basel II |
Điểm đặc biệt của Thông tư 41 là cách tính tài sản có rủi ro rất khác so với Thông tư 36. Nếu như rủi ro trong Thông tư 36 tập trung vào tín dụng, thì theo yêu cầu của Thông tư 41, ngoài rủi ro tín dụng, ngân hàng phải tính cả tài sản có rủi ro về thị trường, rủi ro hoạt động. Nghĩa là dựa trên tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản có rủi ro thì mẫu số có rủi ro sẽ được làm “phình” ra vì phải cộng thêm các loại tài sản có rủi ro như trên.
Chính vì vậy, nếu tử số là vốn chủ sở hữu không tăng được mà mẫu số phình lớn ra sẽ đẩy tỷ lệ an toàn vốn xuống rất thấp. Đó chính là lý do mặc dù tỷ lệ an toàn vốn tính theo Thông tư 36 là 9%, song theo Thông tư 41 sẽ giảm xuống 8% và cho dù hiện tỷ lệ an toàn vốn của toàn hệ thống là trên 12% song nếu tính đúng tính đủ theo Thông tư 41, một số ngân hàng có thể chỉ ở mức đạt.
Trong khi đó, nếu một ngân hàng không đáp ứng được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% trong một thời gian dài thì có thể bị NHNN đưa vào diện kiểm soát đặc biệt. Nếu tỷ lệ xuống đến một mức rất thấp, NHNN có thể tìm cách xử lý với những biện pháp đặc biệt được quy định trong Luật sửa đổi Luật các Tổ chức tín dụng, bao gồm cho vay đặc biệt, sáp nhập và cuối cùng là có thể cho phá sản.
Thông tư 41 có hiệu lực ngày 1/1/2020, cùng với Thông tư 13/2018/TT-NHNN có hiệu lực ngày 1/1/2019 và Luật sửa đổi Luật các Tổ chức tín dụng tạo ra một hành lang pháp lý chặt chẽ để buộc các ngân hàng phải có đủ vốn chủ sở hữu và hoạt động lành mạnh, kiểm soát rủi ro tốt, nếu không muốn nhận được “cái roi” cuối cùng là sáp nhập hay phá sản.
Tuy nhiên, theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, việc triển khai Thông tư 41 đối với các ngân hàng Việt Nam hiện tại gặp 2 vấn đề. Thứ nhất, tử số của tỷ lệ an toàn vốn phải tăng, tức là vốn tự có, vốn chủ sở hữu phải tăng lên để bảo đảm trong tương lai ngân hàng đạt được tỷ lệ an toàn vốn 8% do mẫu số tăng lên khi các ngân hàng phải tính lại toàn bộ tài sản có của mình.
Cụ thể, một món cho vay doanh nghiệp, trước kia hệ số rủi ro là 100% theo Thông tư 36, nhưng bây giờ hệ số có thể tăng lên đến 200% tuỳ vào tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn. Chẳng hạn, nếu doanh nghiệp không có báo cáo tài chính nghĩa là độ rủi ro cao hơn nhiều nên phải sử dụng hệ số rủi ro đến 200%.
Theo đó, tất cả những món nợ của ngân hàng và tài sản có của các ngân hàng phải tính lại toàn diện để có thể đáp ứng được hệ số rủi ro mới. Đây là việc làm không đơn giản vì mỗi ngân hàng có hàng chục nghìn khách hàng và tình hình tài chính của khách hàng thay đổi thường xuyên, giá trị tài sản bảo đảm thay đổi thường xuyên. Ngân hàng không thể theo dõi thủ công mà phải có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin.
Thứ hai, ngân hàng phải có một dữ liệu về tất cả những loại tài sản rủi ro của mình từ nhiều năm. Những dữ liệu đó sẽ cho ngân hàng biết về mức độ rủi ro của mỗi món vay hay mỗi loại tín dụng. Đó là vấn đề các ngân hàng Việt gặp nhiều trở ngại, bởi có những ngân hàng không lưu trữ những dữ liệu một cách thống nhất từ nhiều năm nay. Mỗi năm lại thay đổi tính chất của loại nợ, ví dụ như cho vay bất động sản lúc thì tính là kinh doanh, lúc tính vào tiêu dùng.
Khó mấy cũng phải làm
“Việc tuân thủ theo Thông tư 41 không dễ dàng nhưng lợi ích khi thực hiện Thông tư 41 là rất rõ ràng do bắt buộc sổ sách của các ngân hàng phải minh bạch hơn, bảo đảm các ngân hàng có vốn chủ sở hữu thích hợp để hoạt động”, TS. Trí Hiếu nhấn mạnh.
Thêm vào đó bắt đầu từ ngày 1/4/2019, NHNN áp dụng xếp hạng tín nhiệm các tổ chức tín dụng trên cơ sở các tiêu chí CAMELS (vốn, chất lượng tài sản, quản trị, lợi nhuận, thanh khoản và rủi ro thị trường) và xếp hạng theo các mức độ A (khá), B (tốt), C (trung bình), D (yếu) và E (yếu kém). Theo TS. Trí Hiếu, ngân hàng được xếp hạng D và E là những ngân hàng “chuẩn bị cho đi vào lịch sử”, nếu không tăng vốn và khẩn trương tái cơ cấu.
Thực tế cho thấy, hệ thống ngân hàng Việt còn non trẻ so với hệ thống tài chính trên thế giới. Trong suốt quá trình phát triển, ngành Ngân hàng Việt Nam đã đi một chặng đường dài và đã phát triển thành một hệ thống ngân hàng hiện đại với sự áp dụng công nghệ thông tin tiên tiến, thực lực tài chính và sức chịu đựng những biến động trên thị trường được tăng cường đáng kể.
Chính vì thế, thực hiện Thông tư 41 để đưa hệ thống ngân hàng Việt đi theo thông lệ quốc tế sẽ nâng cao vị trí ngân hàng Việt trên thị trường tài chính thế giới và từ đó vấn đề kêu gọi vốn từ nhà đầu tư nước ngoài sẽ thuận lợi hơn.
NCB đang nỗ lực cải tiến các chính sách và quy trình hoạt động để đáp ứng các quy định của Thông tư 41 và Thông tư 13 |
Trong số các ngân hàng đang nỗ lực kêu gọi vốn đầu tư từ nhà đầu tư nước ngoài có Ngân hàng TMCP Quốc Dân (NCB) - một ngân hàng bậc trung có trụ sở tại Hà Nội. Trong vòng 5 năm qua, NCB đã chứng tỏ một sức phát triển mạnh mẽ từ tổng tài sản, đến các nguồn lực và cách quản trị, điều hành trong kinh doanh.
Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã quan tâm đến NCB khi nghiên cứu về sự phát triển, hệ sinh thái và chiến lược kinh doanh của NCB. Nhằm đáp ứng các chuẩn mực cần có và thực hiện các quy định của cơ quan quản lý, NCB đang nỗ lực cải tiến các chính sách và quy trình hoạt động để đáp ứng các quy định của Thông tư 41 và Thông tư 13. Điều này làm tăng tính hấp dẫn của NCB đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi họ đặc biệt quan tâm đến quản lý rủi ro và tuân thủ.