USD tăng giá: Các nền kinh tế mới nổi chịu trận
Đồng Mỹ kim tăng giá lợi nhiều hơn hại |
Mỹ tăng lãi suất và... hậu quả
Trước hết, là đối với châu Âu - nơi Khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) chưa ra khỏi khủng hoảng và vấn đề Hy Lạp đang đe dọa sự vẹn toàn của đồng tiền chung trong bối cảnh Athens đã cạn tiền mà vẫn phải trả nợ theo một lịch trình rất khắt khe từ nay đến cuối năm. Tình trạng đó đã khiến đồng euro mất giá so với USD và nguy cơ sẽ còn mất giá nhiều hơn nữa.
Thứ hai, khi các thị trường quốc tế đều đang dõi theo từng thông tin từ Fed để dự đoán về quyết định và thời điểm tăng lãi suất thì NH Trung ương châu Âu (ECB) vẫn duy trì lãi suất thấp và còn bắt đầu chương trình bơm thêm tiền để kích thích kinh tế hồi phục. Hai chiều hướng đó khiến giới đầu tư tìm đến nơi đồng tiền có khả năng sinh lời cao hơn và đó chính là thị trường Mỹ. Họ đổi euro sang USD để đầu tư vào Mỹ.
Liên minh châu Âu (EU) có 28 quốc gia và chỉ có 19 nước sử dụng đồng euro, còn nhiều nước khác vẫn tương đối vững mạnh. Vì sao giới đầu tư không rót tiền vào các nước đó mà lại chọn thị trường Mỹ? Việc dòng vốn châu Âu rời khỏi Eurozone để "đổ" vào các nước châu Âu khác đã xảy ra, như khi người ta mua đồng franc của Thụy Sỹ hay đồng krone của Đan Mạch.
Nhưng hậu quả là lại làm các đồng tiền châu Âu ngoài khối Eurozone lên giá và gây bất lợi cho xuất khẩu nên các nước này cũng đẩy mạnh cắt giảm lãi suất, bơm thêm tiền, áp dụng tiền gửi có lãi suất âm. Vì thế mà dòng vốn mới rời khỏi châu Âu để chảy về Mỹ.
Ngoài ra, nhiều nước Trung Đông hay Đông Á cũng tính toán như vậy và dồn tiền về Mỹ cho an toàn và có lời hơn. Điều đó cũng gây bất lợi cho Mỹ vì làm đồng USD và trái phiếu càng lên giá.
Liên quan tới việc Mỹ có thể tăng lãi suất, đầu tiên cần phải phân biệt lãi suất dài hạn và lãi suất ngắn hạn. Tại Mỹ, lãi suất dài hạn được thả nổi cho thị trường quyết định theo quy luật cung - cầu. Đấy là lợi suất của trái phiếu. Nó tăng hay giảm là do thị trường quyết định. Nếu tiền nhiều và đi vay dễ thì trị giá trái phiếu sẽ tăng mà lợi suất lại giảm. Đó là điều bất lợi cho người gửi tiết kiệm vì lãi suất quá thấp.
Khi theo dõi tin tức thị trường, nên nhớ đến quy luật này qua tựa đề của bản tin là “Trái phiếu lên giá” thì có nghĩa là tiền lãi giảm. Ngược lại, khi có tin là “Trái phiếu sụt giá”, điều ấy có nghĩa là lợi suất tăng. Còn lãi suất ngắn hạn là thuộc thẩm quyền của Fed – NH Trung ương Mỹ.
Fed là một định chế độc lập có quyền quyết định về lãi suất ngắn hạn theo hai yêu cầu: Một là ổn định tiền tệ, để lạm phát không xảy ra tại Mỹ; Hai là tạo điều kiện phát triển kinh tế để người dân có việc làm, tức là giảm thiểu tình trạng thất nghiệp.
Định chế này có một ủy ban chuyên trách về chính sách tiền tệ và tín dụng, gọi là Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC). Uỷ ban này cứ 6-7 tuần nhóm họp một lần, một năm khoảng tám lần hoặc là hàng tháng, để rà soát tình hình kinh tế và ra quyết định về lãi suất ngắn hạn nếu thấy cần.
Lãi suất đó được gọi là “federal funds rate”, hay Fed Fund, hay lãi suất liên NH mà các NH tính cho nhau khi thiếu thanh khoản hay cạn tiền. Từ lãi suất cơ bản các NH tính thêm nhiều nấc tiền lãi cho người đi vay tùy mức rủi ro. Nếu lãi suất cơ bản này mà thấp thì người ta được vay tiền rẻ và dễ hơn, nên sẽ nâng mức lưu thông tiền trong nền kinh tế. Ngược lại, nếu tiền quá rẻ thì dễ gây ra lạm phát nên lãi suất có thể tăng, làm lượng tiền lưu hành trong kinh tế lại giảm.
USD tăng giá tác động tới các nền kinh tế mới nổi
Việc đồng USD tiếp tục tăng giá đã dẫn đến sự quan ngại của toàn thế giới. Một số chuyên gia cho rằng đối với các nước châu Âu và Mỹ, việc đồng Mỹ kim tăng giá lợi nhiều hơn hại, nhưng đối với các nền kinh tế mới nổi, tác động tiêu cực do đồng USD lên giá mang tới là khá lớn.
Ông Vương Vinh Quân, Chủ nhiệm Phòng Kinh tế Sở Nghiên cứu Mỹ Viện Khoa học - Xã hội Trung Quốc, cho rằng đồng USD tiếp tục tăng giá có ba tác nhân chủ yếu như sau: Một là sự phân hóa về tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Hiện nay kinh tế Mỹ phục hồi khá vững chắc, còn nhịp độ tăng trưởng của châu Âu, Nhật Bản và các nền kinh tế chủ chốt khác đều gặp khó khăn ở mức độ khác nhau. Tình hình này một mặt đẩy đồng USD tăng giá, mặt khác lại là đòn giáng vào các đồng tiền chủ chốt khác như euro, yên Nhật…
Hai là sự phân hóa về chính sách tiền tệ của các nền kinh tế chủ chốt. Năm 2014, Fed đã chấm dứt chính sách nới lỏng định lượng, kinh tế Mỹ có sự chuyển biến tốt, tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục giảm xuống. Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế của châu Âu và Nhật Bản vẫn đứng trước rủi ro suy giảm, chính sách tiền tệ của họ sẽ tiếp tục đi trên quỹ đạo nới lỏng định lượng.
Ba là nhu cầu đối với các tài sản được định giá bằng USD của thị trường cũng tăng lên. Sự biểu hiện của các nền kinh tế chủ chốt ngoài Mỹ không tốt, rủi ro địa chính trị của năm 2014 cũng khá nổi cộm, vì vậy đã tăng cường sức hấp dẫn của đồng USD - một công cụ truyền thống trong phòng chống rủi ro.
Ông Vương Vinh Quân cho rằng đối với các nền kinh tế mới nổi mà nói, tác động tiêu cực của việc đồng USD tăng giá là khá lớn. Mức phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài của các nền kinh tế mới nổi khá cao, trong lúc mức tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế mới nổi nhìn chung chậm lại, quy mô nguồn vốn chảy ra ngoài do đồng USD tăng giá cũng khá lớn.
Điều này đã gây thách thức cho tỷ giá hối đoái, giá tài sản đầu tư và tính thanh khoản thị trường của các nền kinh tế nói trên. Những năm gần đây, do không ít nền kinh tế mới nổi đã trở thành “ông chủ” mua trái phiếu và trái phiếu doanh nghiệp được tính bằng đồng USD, nên việc đồng bạc xanh tăng giá sẽ tăng thêm gánh nặng nợ nần, tình hình thu - chi xấu đi, một số nền kinh tế mới nổi đang đứng trước rủi ro khủng hoảng nợ công.
Ngoài ra, một số nền kinh tế mới nổi do phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và năng lượng, trong bối cảnh đồng USD tăng giá, giá năng lượng và hàng hóa thanh toán bằng đồng tiền này sẽ tiếp tục giảm, nên chắc chắn sẽ gây tác động tiêu cực đối với mức tăng trưởng của các nền kinh tế này.
Cũng như các nước trên, Trung Quốc đang phải đối mặt với đồng nhân dân tệ giảm giá, dòng vốn chảy ra nước ngoài, xuất khẩu sụt giảm, nhưng hiện nay nhịp độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc vững chắc hơn so với phần lớn các nền kinh tế mới nổi.
Chỉ cần duy trì sự vận hành ổn định của kinh tế vĩ mô, kiên trì thúc đẩy cải cách để làm dịu vấn đề nợ công, đồng thời tăng cường quản lý vốn thanh khoản, thì Trung Quốc có thể ổn định tỷ giá hối đoái đồng nhân dân tệ cũng như thích ứng với môi trường kinh tế quốc tế mới trong bối cảnh đồng USD tăng giá.