2 kịch bản tăng trưởng 2021: Nhiều khả năng đạt khoảng 6%
Cụ thể, với kịch bản 1, CIEM dự báo GDP năm 2021 có thể tăng ở mức 5,98%; kim ngạch xuất khẩu tăng 4,23%; thặng dư thương mại 5,49 tỷ USD; lạm phát bình quân năm tăng 3,51%.
Ở kịch bản 2, GDP năm 2021 có thể tăng 6,46%; kim ngạch xuất khẩu tăng 5,06%; thặng dư thương mại ở mức 7,24 tỷ USD; lạm phát bình quân năm tăng 3,78%.
Các kịch bản trên được xây dựng dựa trên đánh giá các yếu tố tác động chính, bao gồm: (1) Kinh tế thế giới còn bất định, rủi ro và dịch COVID-19 và các biến thể diễn biến phức tạp, khó lường, luôn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát làn sóng tiếp theo; (2) Nhiều nền kinh tế thực hiện các gói hỗ trợ quy mô lớn, trong khi thiếu điều phối ở cấp độ toàn cầu có thể gây ra những rủi ro không nhỏ đối với thị trường tài chính thế giới và tình trạng nợ toàn cầu; (3) Cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số tiếp tục chuyển biến nhanh, ảnh hưởng đến sự phát triển của cả doanh nghiệp và thị trường trong nước Việt Nam; (4) Khả năng duy trì các cải cách thực chất đối với môi trường đầu tư - kinh doanh sẽ ảnh hưởng đến tâm lý, quyết định mở rộng đầu tư của nhiều doanh nghiệp nước ngoài; (5) Nhu cầu tiêu dùng trong nước có thể gia tăng nhanh hơn và doanh nghiệp có thể tập trung hơn đến khai thác thị trường trong nước; (6) Dù kỳ vọng nhiều vào tác động tích cực của EVFTA, Việt Nam có thể phải đối mặt với nhiều vụ kiện phòng vệ thương mại, điều tra chống lẩn tránh thuế, gian lận xuất xứ… không chỉ ở thị trường Mỹ.
Theo đó, kịch bản 1 được coi là sẽ có nhiều khả năng xảy ra hơn, còn kịch bản 2 chỉ có thể đạt được với nỗ lực cao, theo ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp của CIEM.
Từ đó, tại báo cáo, CIEM nhấn mạnh lại thông điệp: Cần tiếp tục tập trung vào cải thiện nền tảng kinh tế vi mô và đổi mới hệ thống thể chế kinh tế theo hướng thân thiện hơn với sáng tạo và môi trường, gắn với xử lý hiệu quả những rủi ro, đặc biệt là COVID-19, trong bối cảnh “bình thường mới”. Các nỗ lực này không tách rời, mà là một phần tiên quyết trong kế hoạch phục hồi kinh tế của Việt Nam.
“Có thể chế tốt là có môi trường kinh doanh tốt, đầu tư công cũng tốt, khoa học công nghệ cũng tốt, theo đó doanh nghiệp phát triển tốt, nền kinh tế phục hồi và tăng trưởng tốt", TS. Lê Xuân Bá, nguyên Viện trưởng CIEM, nói. "Nếu thể chế không tốt thì dù những thứ khác có tốt cũng không phát huy được”.
Các chuyên gia cùng đồng thuận quan điểm: Đại dịch COVID-19 là "một lời cảnh tỉnh” quan trọng để Việt Nam lưu tâm hơn tới các cải cách đủ chất lượng cho phát triển bền vững.
“Diễn biến phức tạp và kéo dài của đại dịch COVID-19 buộc chúng ta phải nhìn nhận các yêu cầu cải cách đủ sâu rộng trong thời gian tới, thay vì tư duy chờ qua dịch rồi mọi thứ sẽ bình thường trở lại”, Viện trưởng CIEM Trần Thị Hồng Minh lưu ý.
Cũng theo Viện trưởng CIEM: “Hội nhập, cải cách và phát triển bền vững” đều là những yêu cầu mà chúng ta đã nhìn nhận và thực hiện bài bản trong những năm qua. Hội nhập, cải cách và phát triển bền vững sẽ không thể tiếp tục đi song song, mà phải bện chặt với nhau hơn”.
Báo cáo của CIEM nhấn mạnh: Những cơ hội từ hội nhập và cải cách kinh tế trong nước là to lớn, song không thể tự hiện thực hóa. Cộng đồng doanh nghiệp và người dân có thể tin vào tiềm năng của Việt Nam trong quá trình hội nhập, song các tiềm năng ấy chỉ trở thành triển vọng và hiện thực hóa trong một môi trường chính sách phù hợp.
Môi trường chính sách ấy phải gắn với những thay đổi rõ ràng, nhất quán, phù hợp với các cam kết quốc tế và mục tiêu phát triển của Việt Nam, đồng thời thể hiện sự thân thiện, khích lệ và nuôi dưỡng sự sáng tạo và phát triển của cộng đồng doanh nghiệp.
“Đừng quá chủ quan và thỏa mãn với kết quả đáng tự hào đã đạt được ở năm 2020. Nếu ở đâu đó có tư tưởng chủ quan thì giá phải trả rất đắt”, TS. Lê Xuân Bá cảnh báo.