Ba Vì hương núi thơm
Có thể nói xã Ba Vì là xã của người Dao. Hàng ngàn người Dao quần chẹt từ trên núi cao dồn xuống từ khi Nhà nước quyết định thành lập Vườn Quốc gia Ba Vì. Họ ở rải rác kéo dài 12 cây số, bắt đầu từ con đường dẫn vào khu du lịch Ba Vì...
Đường vào thôn Hợp Nhất xã Ba Vì |
Những giai điệu Dao và sắc màu trăm năm
Lịch sử của những người Dao quần chẹt hiện diện trên núi Ba Vì quả là một chặng đường đầy cam go và hết sức bí ẩn. Đây là một dòng người Dao giống như những tộc người Dao khác như Dao đỏ, Dao tiền, Dao Lô ngang, Dao quần trắng... là những bộ tộc trôi dạt, phiêu lưu với số phận khắp nơi đó đây.
Những bản người Dao quần chẹt định cư trên núi Ba Vì khoảng hơn 200 năm qua. Họ vẫn giữ được những nét văn hóa, tập tục sinh hoạt của người Dao nói chung và của người Dao quần chẹt nói riêng, tạo nên một bản sắc độc đáo.
Hình ảnh của người Dao quần chẹt được thể hiện rõ rệt ở trang phục nữ giới. Khi gặp anh Hạnh, chồng của lương y Triệu Thị Trịnh, thôn Yên Sơn cho biết: “Các cô gái thường mặc quần ống nhỏ, ôm chặt tới đầu gối; còn bắp chân được quấn xà cạp trắng tới mắt cá chân”.
Thực ra đó là hình ảnh của tục bó chân, tạo dáng của nghệ thuật làm đẹp và nâng cao dáng vóc xưa của người Trung Hoa. Mà các bộ tộc người Dao ở nước ta đều trôi nổi từ phương Bắc xuống. Họ chính là gốc Hoa nên chữ viết còn gìn giữ được từ những văn bản chữ Hán, khi sang nước ta được chuyển hóa thành chữ Nôm Dao.
Do đó hầu hết các bộ tộc Dao các dòng đều có chữ giống nhau là vì thế. Kể cả ngôn ngữ giao tiếp và sinh hoạt văn hóa tương tự và chỉ thay đổi một phần theo vùng miền định cư. Tại chân núi Ba Vì, người Dao quần chẹt có 7 dòng họ như: Dương, Lý, Bàn, Đặng, Phùng, Lăng và họ Triệu là đông nhất. Họ ở tách bạch không xen lẫn với những người dân tộc khác, nên các sinh hoạt thống nhất và được gìn giữ hết sức bền vững.
Riêng lễ Tết nhảy của người Dao quần chẹt vào dịp trước Tết Nguyên đán thì vẫn còn giữ nguyên bản hàng trăm năm qua. Anh Hạnh kể, lễ Tết nhảy thường diễn ra tại các nhà có chức sắc như trưởng họ, trưởng tộc hay trưởng bản, để tạ ơn tổ tiên và cầu mong mọi sự làm ăn trong năm mới được may mắn và giàu có. Lễ của người Dao quần chẹt diễn ra trong các điệu nhảy quen thuộc, suốt ba ngày đêm liền mới hết.
Họ thay nhau ca múa, hết điệu này sang điệu khác, không ngưng nghỉ. Sau đó ngoài lễ Tết nhảy, thanh niên còn rủ nhau đi hát đối đáp, giao duyên bên đồi bên suối. Đó là những làn điệu Páo dung, với nhiều bài hát khác nhau tựa suối nguồn tinh thần của một dân tộc và cũng là một kho báu của người Dao. Páo dung cho giao duyên. Páo dung cho hát ru…
Còn nữa Páo dung cho nghi lễ, tín ngưỡng và phong tục. Kể cả Páo dung hát về lao động và sinh hoạt vui chơi. Nghĩa là người Dao sinh sống luôn luôn gắn liền với hát ca. Páo dung được coi là hơi thở của tâm linh Dao. Nói rồi anh Hạnh hát cho tôi nghe vài câu, nghe ám ảnh làm sao. Tôi không thể ngờ lời bài hát lại hay đến vậy.
Lời cô gái rằng: “Khi đi săn, đi núi. Anh hãy cõng hồn em. Khi nóng bức, mệt mỏi. Anh hãy uống hồn em. Thì sẽ làm cho mát dịu. Mọi nhọc nhằn sẽ tiêu tan...”. Khi đó người con trai xao xuyến cõi lòng và đáp lại: “Nghe em hát, tim anh vời vợi. Từng lời em như cháy bỏng trong lòng. Khi em về, anh chẳng biết làm sao nữa. Nghĩ về em. Nhớ về em...”. Tôi sững sờ với những làn điệu Páo dung, cùng những lời ca chan chứa tình yêu của những đôi trai gái.
Một kho báu ngát hương
Có thể nói xã Ba Vì là một vựa thuốc nam trên đất thủ đô. “Người Nam dùng thuốc nam”, đó là khẩu hiệu và tâm trí của ông cha ta xưa. Bởi lẽ do phong thổ và tập tục hàng ngàn năm đã minh chứng cho sự hiện diện sâu sắc của thuốc nam không hề thua thuốc bắc. Ngành đông y đã khởi động từ hàng chục năm qua đầu tư và nghiên cứu thuốc nam để phát huy và vận dụng trong việc chữa trị bệnh, với mục đích tránh những hiểm họa do hệ lụy của thuốc tây gây ra.
Và những bài thuốc nam của người Dao ở Ba Vì được chú ý đầu tiên. Họ biết rằng những người Dao quần chẹt ở đây có nhiều bài thuốc bí truyền hết sức hiệu nghiệm cho việc chữa trị các bệnh nan y. Có đơn vị đã nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn để sản xuất những bài thuốc độc đáo của người Dao ở đây.
Đặc biệt là Viện dược liệu Việt Nam đã lập dự án thực hiện đề tài “Cây thuốc người Dao Ba Vì”. Sau hai mươi năm nghiên cứu thành công Tiến sĩ Trần Văn Ơn, chủ biên đã cho xuất bản được cuốn sách thuốc này. Đây quả là một công trình mới lạ, nếu không nói là duy nhất chỉ người Dao quần chẹt ở Ba Vì mới có.
Khi vào thôn Hợp Sơn, tôi gặp ông Triệu Phú Quý, chủ một gia đình sống bằng nghề làm thuốc nam ở đây. Ông tâm sự, chính núi Tản viên sơn là một kho thuốc nam vĩ đại nhất, mà người Dao quần chẹt đã được hưởng lợi thế. Hơn hai thế kỷ qua, người Dao ở Ba Vì đã sưu tầm và trải nghiệm phát hiện ra 500 loài thuốc quý. Những người Dao với hàng trăm bài thuốc, chỉ dùng thuốc trên núi Ba Vì để chữa bệnh cho mọi người.
Lương y Triệu Phú Quý, một người rất giỏi bắt bệnh bốc thuốc. Cả nhà ông từ vợ, đến con trai, con dâu đều làm nghề chữa bệnh cứu người. Đúng lúc đó, con trai út của ông vừa đi lấy một giấy xác nhận của xã về để xin vào học trường thuốc trên thành phố. Ông chỉ về phía đỉnh núi rồi kể, những năm tháng tuổi thơ phải đi theo mẹ hái thuốc vất vả thế nào, đã nhiều lần gặp thú dữ nhưng đều thoát khỏi.
Vậy mà giờ đây xã đã có Công ty cổ phần thuốc nam, bà con tha hồ mà phát huy làm ăn, không phải đi lang thang kiếm dạo lần hồi. Ông vừa nói, vừa cười, nhưng ánh mắt hoe đỏ vì khóe lệ. Có lẽ ông chợt nhớ lại những hình ảnh một thời lận đận, cam go trên mọi nẻo đường mưu sinh…
Ba Vì mờ cao
Đây là tên một bài thơ của thi sĩ Quang Dũng sáng tác từ những năm kháng chiến chống Pháp. Trong đó có câu: “Ba Vì mờ cao. Làn sương chiều xa buông gió về đâu. Hương núi thơm dâng hồn về đâu...”. Tôi đoán chắc câu thơ mới lạ “Hương núi thơm dâng hồn về đâu” được viết ra khi nhà thơ được sống trong hương thơm của các vị thuốc người Dao quần chẹt ngày nào trên triền núi Ba Vì.
Bởi giờ đây khi chia tay những đôi mắt Dao hiền hậu và những tấm lòng nhân ái, tôi cũng đem theo hương thơm của núi Ba Vì. Phía xa kia, trên đỉnh Ba Vì ngôi tháp bên đền Bác Hồ như phả một làn sương bồng bềnh dâng cao.
Tiếng chuông thỉnh lên vọng tiếng vang xa. Còn dưới chân núi là những chảo thuốc thơm thảo tình người đang trao gửi về mọi miền đất nước. Những làn điệu Páo dung cùng tiếng kèn Pí Lè về tình yêu làm xao xuyến lòng người. Nó cứ đeo đẳng ngân nga cùng tôi trên nẻo đường về thành cổ Sơn Tây...