Chỉ số kinh tế:
Ngày 5/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.151 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.944/26.358 đồng/USD. Kinh tế tháng 10 tiếp tục khởi sắc, khi sản xuất công nghiệp tăng 10,8%, gần 18 nghìn doanh nghiệp mới ra đời, đầu tư công tăng 29,1%, FDI đạt 31,52 tỷ USD. Xuất nhập khẩu đạt 81,49 tỷ USD, xuất siêu 2,6 tỷ USD, CPI tăng nhẹ 0,2%, và khách quốc tế đạt 1,73 triệu lượt, cho thấy đà phục hồi vững của kinh tế Việt Nam.
dai-hoi-cong-doan

Có thể chấp nhận lạm phát hơn 4%

Đỗ Lê thực hiện
Đỗ Lê thực hiện  - 
Hiện lạm phát đang chịu nhiều sức ép tăng trong thời gian tới, nếu lạm phát năm nay không giữ được ở mức 4% như chỉ tiêu đặt ra mà lên tới 5 - 6% vẫn là mức chấp nhận được. Chúng ta cần cố gắng không để lạm phát vượt 7%.
aa
co the chap nhan lam phat hon 4 Lạm phát - mối quan tâm hàng đầu của nhiều ngân hàng trung ương
co the chap nhan lam phat hon 4 Điều hành chính sách tiền tệ trước áp lực lạm phát tăng
co the chap nhan lam phat hon 4 Áp lực lạm phát gia tăng nhanh
co the chap nhan lam phat hon 4
PGS.TS. Vũ Sỹ Cường

Nền kinh tế đang trên đà phục hồi, nhưng từ cuối tháng 2 đã nảy sinh nhiều áp lực mới như số ca nhiễm Covid tăng cao và đặc biệt là tác động từ cuộc xung đột Nga - Ukraine. Những yếu tố này khiến trong đánh giá mới đây, WB nhận định tính bất định của phục hồi kinh tế toàn cầu gia tăng, tạo ra những căng thẳng mới đối với chuỗi cung ứng toàn cầu. Kinh tế Việt Nam cũng đối mặt với nhiều rủi ro.

Chúng tôi có cuộc trao đổi với PGS.TS. Vũ Sỹ Cường - Phó trưởng bộ môn Phân tích chính sách tài chính, Học viện Tài chính xung quanh vấn đề này.

Ông đánh giá thế nào về sức chống chịu của nền kinh tế Việt Nam hiện nay?

Có nhiều chỉ tiêu đánh giá ổn định vĩ mô của một nền kinh tế như: tăng trưởng, cung tiền, dự trữ ngoại hối; bội chi ngân sách, tỷ lệ nợ công/GDP; lạm phát… Nếu nhìn vào các chỉ số đó cho đến hiện nay có thể khẳng định sức chống chịu của nền kinh tế Việt Nam vẫn tốt.

Bên cạnh đó, một điểm tích cực hiện nay là tuy lượng ca nhiễm Covid tăng mạnh, nhưng tỷ lệ bệnh nặng không cao và tử vong rất ít, cho thấy độ phủ vắc xin rất cao cùng với thuốc điều trị hiện đã phổ biến sẽ giúp giảm thiểu những tác động của dịch bệnh đến kế hoạch phục hồi phát triển kinh tế trong năm nay.

Trong khi đó, lạm phát giá lương thực, thực phẩm thường là yếu tố gây tác động rất lớn tới lạm phát thì Việt Nam mình tự chủ được lương thực, thực phẩm, thậm chí còn được lợi khi là nước xuất khẩu lớn các mặt hàng nông sản. Nên đây cũng là yếu tố rất quan trọng giúp có được sức chống chịu trong bối cảnh hiện nay. Ngoài ra, xuất khẩu vẫn tích cực, các cán cân vĩ mô được đảm bảo trong thời gian qua cũng giúp nền kinh tế có cơ hội phục hồi.

Như vậy, về cơ bản sức chống chịu vẫn đang tốt, nhưng sự bắt nhịp phục hồi của Việt Nam với thế giới đang bị lệch pha. Năm 2021, thế giới đã phục hồi trở lại thì Việt Nam vẫn phải thực hiện giãn cách xã hội ở những nơi có dịch, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất kinh doanh. Năm nay khi Việt Nam mở cửa trở lại thì lại gặp phải bối cảnh thế giới xấu đi vì xung đột Nga - Ukraine, giá cả hàng hóa, đặc biệt là dầu mỏ, tăng mạnh khiến lạm phát có nguy cơ tăng cao.

Song nhờ các chỉ tiêu vĩ mô vẫn ổn, dự trữ ngoại hối ở mức cao… nên nói chung sức chống chịu của nền kinh tế vẫn rất tốt.

Trong bối cảnh xuất hiện những yếu tố bất định mới, theo ông, lạm phát ở mức nào là phù hợp cho năm nay?

Trong nhiều năm qua chúng ta đã duy trì được lạm phát ổn định trong mức mục tiêu dưới 4%. Tôi cho rằng, với quốc gia đang phát triển như Việt Nam lạm phát ở mức 4-6% là bình thường và chấp nhận được, nếu trên 7% là mức cần lo và lạm phát từ 10% trở lên là lạm phát cao và có rủi ro với ổn định vĩ mô. Vấn đề cũng cần quan tâm là dù lạm phát tổng thể thấp nhưng chỉ số giá tài sản (nhất là bất động sản) tăng quá cao cũng sẽ là rủi ro vĩ mô về trung và dài hạn.

Hiện lạm phát đang chịu nhiều sức ép tăng trong thời gian tới, nếu lạm phát năm nay không giữ được ở mức 4% như chỉ tiêu đặt ra mà lên tới 5 - 6% vẫn là mức chấp nhận được. Chúng ta cần cố gắng không để lạm phát vượt 7%.

Nhiều ý kiến cho rằng, sự phối hợp chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT) là rất quan trọng để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi. Tuy nhiên cần chú ý vấn đề gì, thưa ông?

Để thực hiện Chương trình phục hồi chúng ta phải nới lỏng tài khóa. Trong bối cảnh bình thường, CSTK nới lỏng có nguy cơ làm tăng lạm phát, nhưng trong điều kiện lạm phát thấp nên không đáng lo. Nhưng hiện nay, áp lực lạm phát cao hơn không chỉ do cầu kéo mà còn từ tác động của chi phí đẩy. Vì vậy, trong quá trình thực hiện Chương trình phục hồi phải sử dụng CSTK và CSTT để điều chỉnh lạm phát ở mức chấp nhận được. Sự phối hợp CSTK và CSTT lúc này vì thế rất quan trọng để giảm thiểu nguy cơ lạm phát quá cao.

Nếu lạm phát tăng cao sẽ khó có dư địa để hạ lãi suất, cao hơn nữa thì không còn dư địa, thậm chí phải tăng lãi suất. Nói cách khác, nếu có sự điều hành vĩ mô tốt và nhịp nhàng; nhận diện và kịp thời phối hợp và điều chỉnh CSTK, CSTT và các chính sách vĩ mô khác trong xử lý các rủi ro tác động tới lạm phát thì lạm phát có tăng nhưng sẽ không tăng đến mức đáng lo, qua đó cũng giữ được mặt bằng lãi suất ổn định.

Một điểm lưu ý nữa là việc Fed bắt đầu tăng lãi suất và dự kiến tần suất tăng nhiều lần hơn trong năm nay cũng có phần tác động tới lãi suất tại Việt Nam.

co the chap nhan lam phat hon 4

Vậy theo ông, cần phải tập trung vào những giải pháp nào để nền kinh tế phục hồi và vẫn kiểm soát được lạm phát?

Vấn đề quan trọng nhất lúc này là không để lạm phát tăng lên mức quá cao. Rõ ràng bức tranh kinh tế đang cho thấy những khó khăn hơn, phải đặt ra nhiều kịch bản hơn. Tuy nhiên, chúng ta chắc chắn phải ngăn chặn được nguy cơ “hạ cánh cứng”. Ví dụ, nếu lạm phát đột ngột tăng cao và phải tăng lãi suất mạnh để đối phó có thể khiến rơi vào tình trạng hạ cánh cứng như giai đoạn những năm 2011-2012. Nên vấn đề quan trọng là không để lạm phát quá cao như tôi đã nói ở trên.

Bên cạnh đó, cần hóa giải nguy cơ thiếu hụt lao động vì số ca nhiễm tăng cao và F1 vẫn phải cách ly. Một trong những yếu tố bắt buộc để tăng trưởng kinh tế đạt được mục tiêu đề ra là phải đảm bảo đủ lực lượng lao động cho các doanh nghiệp. Trên thực tế, việc quy định F0, F1 không được đi làm, hoặc làm việc theo mô hình cách ly (ví dụ yêu cầu phải có khu vực làm việc dành riêng cho các trường hợp F1) khiến rất nhiều doanh nghiệp rơi vào cảnh thiếu hụt lao động trầm trọng. Thiếu hụt lao động làm việc thì sản xuất gặp khó, dẫn tới nguy cơ thiếu cung hàng hóa. Thiếu cung thì giá cả lại càng lên. Do đó để nền kinh tế không nghẽn, tránh được thiếu hụt lao động, thu nhập người lao động không bị sụt giảm hơn nữa thì tiếp tục “gỡ” về y tế, theo đó cần bỏ khái niệm F1 đi, để F1 được đi làm bình thường.

Trong khi đó, Chương trình phục hồi phải nhanh thực hiện mới phát huy hiệu quả. Hiện nay các công việc liên quan còn phụ thuộc vào các bộ, ngành đưa ra các quy định, hướng dẫn. Nhưng xin lưu ý chúng ta đã sắp đi qua quý I.

Với những rủi ro mới xuất hiện, theo ông việc thực hiện Chương phục hồi kinh tế - xã hội có cần phải điều chỉnh gì không?

Trong bối cảnh phát sinh nhiều thách thức mới hiện nay thì cần phải điều chỉnh trong thực thi CSTK và CSTT. Việc điều chỉnh như thế nào thì phải được nghiên cứu, đánh giá. Đây là những điều chỉnh mang tính chất kỹ thuật để không làm tăng nguy cơ lạm phát cao. Ví dụ như thời điểm phát hành trái phiếu, giải ngân đầu tư công, điều chỉnh cung tiền và lãi suất… Tất cả cần được cân nhắc. Bên cạnh đó, để thực hiện nhanh gói hỗ trợ Chính phủ cũng nên có những hướng dẫn cụ thể hơn về thực hiện gói Hỗ trợ và kiểm tra giám sát với các địa phương và các bộ, ngành, bởi không cụ thể hóa và quyết liệt thì chính sách tốt cũng kém hiệu quả khi thực thi.

Xin cảm ơn ông!

Đỗ Lê thực hiện

Tin liên quan

Tin khác

ABBank: Tổng tài sản vượt 204.000 tỷ đồng

ABBank: Tổng tài sản vượt 204.000 tỷ đồng

Báo cáo tài chính hợp nhất quý III/2025 của Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank, mã: ABB) ghi nhận một kết quả kinh doanh ấn tượng, phản ánh đà phục hồi mạnh mẽ và sự chuyển mình hiệu quả. Đáng chú ý, tổng tài sản của ngân hàng này đã đạt mốc 204.576 tỷ đồng, tăng 16% so với đầu năm và tăng 25% so với cùng kỳ năm 2024, khẳng định sự mở rộng quy mô vững chắc.
TPBank: Tín dụng vượt 22%, tài sản cán đích sớm

TPBank: Tín dụng vượt 22%, tài sản cán đích sớm

Báo cáo tài chính quý III/2025 của Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank) cho thấy một bức tranh tăng trưởng đồng đều, từ quy mô tài sản, tín dụng cho đến hiệu quả hoạt động và quản trị rủi ro. Trong bối cảnh thị trường ngân hàng cạnh tranh ngày càng gay gắt và yêu cầu về chuẩn mực an toàn vốn nâng cao, TPBank tiếp tục khẳng định vị thế là một trong những ngân hàng có tốc độ tăng trưởng bền vững và khả năng thích ứng linh hoạt.
LPBank bứt tốc: Tín dụng tăng 17%, tài sản vượt 539.000 tỷ đồng

LPBank bứt tốc: Tín dụng tăng 17%, tài sản vượt 539.000 tỷ đồng

Ngân hàng TMCP Lộc Phát Việt Nam (LPBank, mã: LPB) vừa công bố báo cáo tài chính quý III/2025, ghi nhận nhiều chỉ số tăng trưởng ấn tượng trên cả ba trụ cột, lợi nhuận, chất lượng tài sản và hiệu quả vận hành. Kết quả tích cực này tiếp tục củng cố vị thế của LPBank trong nhóm các ngân hàng tư nhân tăng trưởng nhanh và bền vững nhất hiện nay.
Saigonbank tăng tốc lợi nhuận nhờ cắt giảm dự phòng mạnh 88%

Saigonbank tăng tốc lợi nhuận nhờ cắt giảm dự phòng mạnh 88%

Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công thương (Saigonbank, mã: SGB) vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý III/2025 với bức tranh lợi nhuận có nhiều điểm sáng. Theo đó, lợi nhuận trước thuế quý 3 đạt hơn 83 tỷ đồng, tăng 78% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu nhờ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng giảm mạnh tới 88%.
NCB vượt kế hoạch năm chỉ sau 9 tháng, tổng tài sản tăng 30%

NCB vượt kế hoạch năm chỉ sau 9 tháng, tổng tài sản tăng 30%

Ngân hàng TMCP Quốc Dân (NCB, mã: NVB) vừa công bố báo cáo tài chính quý III/2025 với nhiều điểm sáng nổi bật, đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ trong năm bản lề của quá trình tái cấu trúc. Tổng tài sản tại ngày 30/9/2025 ước đạt hơn 154.100 tỷ đồng, tăng 30% so với cuối năm 2024 và vượt 14% kế hoạch đã được thông qua tại Đại hội đồng cổ đông thường niên. Đây là một trong những mức tăng trưởng tài sản ấn tượng nhất trong nhóm các ngân hàng đang thực hiện phương án cơ cấu lại.
VIB: Chất lượng tài sản cải thiện mạnh mẽ

VIB: Chất lượng tài sản cải thiện mạnh mẽ

Ngân hàng TMCP Quốc tế (VIB) vừa công bố kết quả tài chính quý 3/2025, ghi nhận lợi nhuận trước thuế đạt hơn 7.040 tỷ đồng, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2024. Đặc biệt, ngân hàng tiếp tục duy trì mức tăng trưởng mạnh mẽ trong các lĩnh vực tín dụng và huy động vốn, với tăng trưởng lần lượt đạt 15% và 11%, góp phần nâng cao tổng tài sản lên hơn 543.000 tỷ đồng, tăng 10% so với đầu năm.
SeABank: Tổng tài sản đạt hơn 380.808 tỷ đồng

SeABank: Tổng tài sản đạt hơn 380.808 tỷ đồng

Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank, mã: SSB) đã ghi nhận những kết quả kinh doanh nổi bật, thể hiện rõ việc hoàn thành và thậm chí vượt kế hoạch đề ra cho cả năm.
Nam A Bank bứt phá, tín dụng và tiền gửi cùng tăng tốc trên 17%

Nam A Bank bứt phá, tín dụng và tiền gửi cùng tăng tốc trên 17%

Ngân hàng TMCP Nam Á (Nam A Bank, mã: NAB) vừa công bố báo cáo tài chính quý III/2025 với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng ấn tượng. Dù thị trường tài chính - tiền tệ vẫn còn biến động, Nam A Bank tiếp tục duy trì đà tăng ổn định, thể hiện năng lực điều hành linh hoạt và chiến lược phát triển bền vững.
Eximbank duy trì đà tăng trưởng ổn định, dư nợ tín dụng tăng 8,51%

Eximbank duy trì đà tăng trưởng ổn định, dư nợ tín dụng tăng 8,51%

Trong bối cảnh ngành ngân hàng đang chịu nhiều áp lực từ môi trường lãi suất, tỷ giá và chi phí hoạt động gia tăng, Ngân hàng TMCP Xuất Nhập khẩu Việt Nam (Eximbank, mã: EIB) vừa công bố báo cáo tài chính quý III và 9 tháng năm 2025 với kết quả kinh doanh tích cực, quy mô tài sản và tín dụng tiếp tục mở rộng, nguồn vốn huy động tăng trưởng ổn định.
MSB vững vàng tăng trưởng: Tín dụng và chiến lược tài chính xanh làm động lực chính

MSB vững vàng tăng trưởng: Tín dụng và chiến lược tài chính xanh làm động lực chính

Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (MSB, mã: MSB) tiếp tục ghi nhận kết quả kinh doanh ổn định, thể hiện năng lực quản trị và chiến lược tăng trưởng bền vững trong bối cảnh thị trường tài chính dần hồi phục. Với tổng tài sản gần 356.000 tỷ đồng, tăng 11% so với cuối năm 2024, MSB đang cho thấy khả năng mở rộng quy mô dựa trên nền tảng tín dụng và huy động vốn hiệu quả.