Điều hành chính sách tiền tệ trước áp lực lạm phát tăng
Lạm phát 2022: Áp lực đã thấy rõ | |
Điều hành chính sách tiền tệ góp phần an dân | |
Điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng: Chủ động, linh hoạt và bản lĩnh |
Nguy cơ nhập khẩu lạm phát
Kể từ khi xung đột Nga - Ukraine nổ ra, giá dầu mỏ và khí đốt tăng cao. Giá dầu Brent đã có lúc vượt ngưỡng 130 USD/thùng, cao nhất kể từ tháng 2/2013. Ngoài ra, Nga và Ukraine là những quốc gia hàng đầu về xuất khẩu lúa mì (29% của cả thế giới), và Nga cũng là nguồn cung quan trọng ở thị trường kim loại và phân bón. Sự đứt gãy chuỗi cung ứng đối với các loại hàng hóa trên có thể gây ra rủi ro về một cuộc khủng hoảng lạm phát.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cảnh báo, giá năng lượng và lương thực tăng phi mã, cộng thêm tác động của lạm phát từ đại dịch và sự gián đoạn chuỗi cung ứng sẽ tác động nghiêm trọng tới kinh tế toàn cầu. Trước đó, trong tháng 1, lạm phát tại Mỹ đã vọt lên mức 7,5%; Anh là 5,5% và Eurozone là 5,1%. Việc giá xăng dầu tăng sốc trong những ngày qua có khả năng đẩy lạm phát của nhiều nước lên mức hai con số. Theo đó, các NHTW như ECB, BOE và Fed có thể tăng lãi suất nhanh và mạnh hơn so với dự tính, dẫn tới kìm hãm kinh tế của chính các nước này và tác động tiêu cực đến nhiều quốc gia khác.
Là một nền kinh tế có độ mở lớn, Việt Nam cũng đang chịu áp lực lạm phát rất lớn trước xu hướng tăng giá của nhiều mặt hàng cơ bản trên thị trường thế giới, đặc biệt là xăng dầu. Bên cạnh áp lực lạm phát, sự đảo chiều chính sách tiền tệ sang thắt chặt tại nhiều nền kinh tế lớn cũng gây thêm khó khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ trong nước.
Lạm phát đang gây khó cho các ngân hàng trong việc duy trì ổn định mặt bằng lãi suất |
Chuyên gia ngân hàng TS. Châu Đình Linh bày tỏ lo ngại, với nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, phải nhập khẩu hàng hoá, nguyên liệu đầu vào nhiều nên sức ép nhập khẩu lạm phát từ bên ngoài là rất lớn. Việc nhập khẩu nguyên liệu với mức giá cao sẽ ảnh hưởng đến chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, đẩy giá hàng hóa tiêu dùng trong nước lên cao, tạo áp lực lạm phát chi phí đẩy. Từ đó gây nhiều khó khăn lên điều hành chính sách tiền tệ, nhất là công cụ lãi suất.
Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia TS. Cấn Văn Lực cũng nhận định, lạm phát tăng chắc chắn tạo áp lực lên điều hành chính sách tiền tệ. Hiện nay, đa số các nước trên thế giới bắt đầu chương trình tăng lãi suất. Nhưng tình thế có thể thay đổi do chiến sự Nga - Ukraine ngày càng khó lường, trở thành nhân tố rủi ro và thách thức mới đối với nền kinh tế thế giới vừa gượng dậy sau đại dịch. Một số NHTW các nước lớn cũng đã và đang phải cân nhắc lại tiến trình tăng lãi suất. Giới phân tích cũng kỳ vọng tới đây Fed chỉ nâng 0,25 điểm phần trăm lãi suất cơ sở thấp hơn so với dự báo nâng 0,5 điểm phần trăm trước khi xảy ra chiến sự. Việt Nam cũng sẽ phải cân nhắc động thái chính sách lãi suất thế nào cho phù hợp, vừa đảm bảo kiểm soát lạm phát vừa đảm bảo hỗ trợ phục hồi tăng trưởng.
Theo TS. Lê Xuân Nghĩa - nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, về lý thuyết, để kiềm chế lạm phát, chính sách tiền tệ cần phải được thắt chặt lại, lãi suất cần phải tăng lên. Nhưng điều này lại ảnh hưởng lớn tới quá trình phục hồi sản xuất của doanh nghiệp. Ngoài lãi suất, tỷ giá cũng chịu áp lực nhất định do những thay đổi về chính sách tiền tệ của Fed, cùng với rủi ro về tăng trưởng toàn cầu chậm lại cũng như căng thẳng địa chính trị Nga - Ukraine đang diễn ra.
Chủ động, linh hoạt, theo sát thị trường
Lạm phát tăng cùng với diễn biến phức tạp địa chính trị thế giới đang gây khó khăn hơn cho NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2022. Đặc biệt, áp lực này diễn ra trong bối cảnh Chính phủ, NHNN đang nỗ lực duy trì mặt bằng lãi suất ổn định để hỗ trợ phục hồi nền kinh tế.
Trước sức ép bốn bề, trong khi dư địa để điều chỉnh chính sách tiền tệ lại hạn hẹp, TS. Châu Đình Linh cho rằng, cơ quan quản lý phải rất thận trọng khi đưa ra thay đổi chính sách. “Dù thay đổi như thế nào, phản ứng chính sách tiền tệ của NHNN cần tiếp tục bám sát diễn biến thị trường thế giới, động thái điều chỉnh của Fed; đồng thời chúng ta phải cân bằng các mục tiêu lớn, vừa hỗ trợ phục hồi kinh tế vừa kiểm soát lạm phát. NHNN có thể vẫn giữ nguyên lãi suất điều hành song song với đó sử dụng nhiều công cụ để hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng có điều kiện duy trì mặt bằng lãi suất ở mức hợp lý”, TS. Châu Đình Linh nhận định.
Có chung quan điểm thận trọng, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt bám sát diễn biến thị trường trong và ngoài nước như thời gian vừa qua. Về tỷ giá tuy gặp áp lực nhưng sẽ vẫn trong mức tương đối ổn định, dự kiến tăng 0,5-1% so với năm ngoái do quan hệ cung cầu ngoại tệ tương đối tốt; cách thức điều hành tỷ giá của NHNN những năm gần đây cũng rất sát với thị trường. Đối với tín dụng, theo TS. Lực tăng trưởng nên duy trì ở mức 14%, tối đa lên 15% để vừa hỗ trợ phục hồi vừa đảm bảo khả năng hấp thụ của nền kinh tế.
TS. Cấn Văn Lực lưu ý, việc phối hợp chính sách tài khoá, chính sách giá cả tốt có ý nghĩa quan trọng vừa đảm bảo thực hiện tốt chương trình phục hồi, vừa đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và góp phần kiểm soát lạm phát. Chẳng hạn, năm nay chúng ta không nên tăng giá các mặt hàng Nhà nước quản lý như điện, nước, y tế… Đặc biệt, phải ngăn chặn hiện tượng trục lợi từ găm hàng, tăng giá kiểu té nước theo mưa… “Để hạn chế hiện tượng trên, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chuyên ngành của các bộ ngành liên quan. Nếu chúng ta không có các biện pháp kịp thời để ổn định giá các mặt hàng thiết yếu, thì lạm phát sẽ tăng nhanh, khiến việc phục hồi kinh tế gặp khó khăn”, TS. Lực khuyến nghị và lưu ý thêm: Các bộ, ngành, địa phương cần phải quyết tâm thực hiện chương trình phục hồi, phát triển kinh tế, xã hội thật tốt, đảm bảo các chính sách hỗ trợ của Chính phủ đúng, trúng và không chạy vào lĩnh vực đầu cơ, tránh gây bất ổn, áp lực lên lạm phát không đáng có.
Ở góc độ ngân hàng, CEO một NHTMCP cho biết, trước mắt ngân hàng cố gắng duy trì ổn định mặt bằng lãi suất như hiện tại, nhưng thời gian giữ được bao lâu còn tuỳ thuộc diễn biến tình hình kinh tế trong nước và nước ngoài. Những bất ổn địa chính trị thế giới đang xảy ra đều nằm ngoài mọi dự đoán và tác động của nó như thế nào đến kinh tế thì khó có thể đánh giá được. Khi mọi thứ đang trở nên khó đoán định, việc của ngân hàng là lên các kịch bản ứng phó và luôn trong trạng thái giám sát kỹ diễn biến kinh tế vĩ mô, tình hình kinh tế để có điều chỉnh linh hoạt. “Chắc chắn sắp tới NHNN sẽ có định hướng chính sách, đó là chỗ dựa để các ngân hàng hoạch định kế hoạch kinh doanh cho mình. Còn trước mắt ngân hàng cố gắng duy trì mặt bằng lãi suất như hiện tại”, vị CEO này chia sẻ thêm.
Áp lực từ các biến số kinh tế - chính trị thế giới lên điều hành chính sách tiền tệ năm nay là điều khó tránh khỏi, song với nền tảng được xây dựng nhiều năm qua, cùng các yếu tố hỗ trợ tích cực như dự trữ ngoại hối kỷ lục, niềm tin của người dân và nhà đầu tư vững chắc… Theo giới chuyên môn, NHNN đang có nhiều điểm tựa để tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt để vừa kiểm soát lạm phát, vừa hỗ trợ tăng trưởng.
Chia sẻ tại diễn đàn trực tuyến: "Kiểm soát lạm phát - Thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế” ngày 9/3 vừa qua, ông Nguyễn Xuân Định, Phó trưởng Phòng Chính sách tổng hợp, Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) cho rằng, ngay từ cuối năm 2021, dù lạm phát ở mức 1,84% - thấp nhất trong 6 năm qua, nhưng Chính phủ, Bộ Tài chính không chủ quan. Khi xảy ra cuộc xung đột Nga – Ukraine phần lớn các cơ quan, tổ chức chỉ dự báo được diễn biến trung hạn và dài hạn để đặt ra những kịch bản về giá xăng dầu. Với kịch bản giá xăng dầu, giá dầu thế giới dù là 130 USD hay 150 USD/thùng, thậm chí hơn, Chính phủ sẽ có những phản ứng chính sách, đưa ra biện pháp điều hành phù hợp trong từng bối cảnh, trong từng trường hợp. Bộ Tài chính phối hợp với các đơn vị xây dựng một kịch bản điều hành giá để báo cáo với Chính phủ. Với kịch bản điều hành giá năm nay, với các kịch bản xăng dầu khác nhau, lạm phát có thể lên đến từ 3,6 - 4,3%. |