Đầu tư cho đổi mới để mở rộng dư địa tăng trưởng
| Doanh nghiệp Việt chuẩn bị cho giai đoạn “chuyển mình” Huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2026 - 2030 |
Doanh nghiệp là trung tâm của đổi mới sáng tạo
Ba thập kỷ phát triển của Tiến Nông ghi dấu một hành trình đặc biệt: doanh nghiệp nông nghiệp nhưng mang trong mình tinh thần đổi mới của một đơn vị công nghệ. Ông Nguyễn Hồng Phong - Tổng giám đốc Công ty cổ phần Công Nông nghiệp Tiến Nông (Thanh Hóa) chia sẻ, đơn vị có một căn phòng đặc biệt là “phòng sáng tạo” - nơi mọi ý tưởng đều được khuyến khích. Tư duy “cải tiến từ những việc rất nhỏ” đã trở thành kim chỉ nam, giúp doanh nghiệp tạo ra những bước tiến lớn suốt 30 năm.
Điểm nhấn của hành trình ấy là giải pháp dinh dưỡng cây trồng, chứ không chỉ dừng lại ở sản phẩm phân bón truyền thống. Với triết lý “cây cần, đất thiếu”, Tiến Nông xác định rõ nhu cầu của từng vùng đất, từng loại cây trồng và cung cấp đúng thứ đất đang thiếu. Từ năm 2010, doanh nghiệp tiên phong sản xuất phân bón chuyên dùng, phủ kín thị trường Thanh Hóa và lan rộng trên cả nước.
Theo ông Phong, khoa học công nghệ chính là nền tảng giúp công ty thực hiện sứ mệnh đồng hành cùng nông dân. Và quan trọng hơn, doanh nghiệp chọn cho mình triết lý xuyên suốt “Làm thật là yêu nước”. Minh bạch quy trình, mở cửa nhà máy, phát triển mạng lưới nhà vườn, tạo điều kiện để người tiêu dùng giám sát - đó là cách doanh nghiệp hướng đến giá trị bền vững.
Ở một lát cắt khác, câu chuyện của bà Nguyễn Thị Thành Thực - Chủ tịch AutoAgri (Hà Nội) cho thấy công nghệ không chỉ là công cụ, mà là “điều kiện tiên quyết” để sản phẩm nông sản Việt Nam vượt qua các hàng rào kỹ thuật ngày càng khắt khe. Khi thị trường đòi hỏi minh bạch nguồn gốc, 5-6 năm trước, bà Thực đã tự đầu tư phần mềm truy xuất bởi Việt Nam chưa có giải pháp phù hợp.
Từ trải nghiệm “người ngoại đạo làm công nghệ”, bà Thực nhấn mạnh một khoảng trống lớn của hệ sinh thái: liên kết giữa nhà khoa học và doanh nghiệp còn lỏng lẻo. Doanh nghiệp có vô số bài toán thực tiễn, nhưng chưa nhận được đủ sự đồng hành từ giới nghiên cứu. Không chỉ cần công nghệ phục vụ sản xuất, doanh nghiệp còn cần cả khoa học quản lý để tăng tốc, thích ứng và tối ưu vận hành trong bối cảnh biến động.
Còn trong lĩnh vực logistics, hành trình của Bee Logistics tiếp tục cho thấy ứng dụng công nghệ có thể tạo ra lợi thế vượt trội như thế nào. Ông Đinh Hữu Thạnh - Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Bee Logistics (TP. Hồ Chí Minh) chia sẻ, khởi nghiệp năm 2004 với nguồn lực hạn chế, Bee xác định công nghệ là mũi nhọn chiến lược khi thị trường mở rộng, nhu cầu “cá biệt hóa” phần mềm ngày càng lớn nhưng các nhà cung cấp bên ngoài tỏ ra e ngại. Đến năm 2014, Bee quyết định tự mời lập trình viên về xây dựng phần mềm riêng, 3 năm sau, hệ thống tự phát triển được đưa vào vận hành.
![]() |
| Doanh nghiệp chuyển mình bằng công nghệ và sáng tạo |
Nâng cao hàm lượng công nghệ
Nhìn rộng ra toàn nền kinh tế, ông Vũ Bá Phú - Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương), nhấn mạnh, dù xuất khẩu tăng mạnh, khoảng 70% kim ngạch vẫn thuộc khu vực FDI. Điều này phản ánh thực tế: công nghệ lõi chủ yếu nằm trong tay doanh nghiệp nước ngoài. Với nông sản, dù đạt kỷ lục xuất khẩu, giá trị gia tăng của Việt Nam vẫn thấp. Các ngành như dệt may, da giày vẫn chủ yếu gia công, phụ thuộc nguyên phụ liệu nhập khẩu. “Nếu muốn công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Việt Nam cần một cuộc cách mạng mạnh mẽ về ứng dụng khoa học công nghệ”, ông Phú khẳng định.
Ở bình diện chính sách, bà Dương Thị Thu Nga, Phó Trưởng phòng Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ (Cục Phát triển thị trường và Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ) cho biết, khung pháp lý dành cho doanh nghiệp khoa học công nghệ đang thay đổi rất mạnh mẽ. Từ Nghị định 80 (năm 2007) đến Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo 2025 và Nghị định 268/2025/NĐ-CP (Nghị định 268), doanh nghiệp khoa học công nghệ đã được mở rộng phạm vi, nới lỏng tiêu chí và trao nhiều ưu đãi hơn về thuế, đất đai, tín dụng và đấu thầu. Nghị định 268 được xem là bước đột phá khi đơn giản hóa thủ tục chứng nhận doanh nghiệp khoa học công nghệ, mở đường để các doanh nghiệp có thể dễ dàng đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Sản phẩm của doanh nghiệp khoa học công nghệ cũng được ưu tiên trong mua sắm công theo Luật Đấu thầu mới - tạo thêm động lực để đổi mới.
Theo ông Vũ Bá Phú, song song với hoàn thiện chính sách, Bộ Công Thương cũng triển khai Chương trình Thương hiệu Quốc gia, lựa chọn các sản phẩm đáp ứng ba tiêu chí: Chất lượng - Đổi mới sáng tạo - Năng lực tiên phong. Trong 5-7 năm gần đây, giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam tăng nhanh, từ hơn 100 tỷ USD lên trên 400 tỷ USD, trong đó có đóng góp quan trọng từ các doanh nghiệp có sản phẩm đạt danh hiệu này. Mục tiêu đến năm 2030 là có 1.000 sản phẩm đạt Thương hiệu Quốc gia, so với mức hơn 340 doanh nghiệp hiện nay. Đây vừa là thách thức vừa là cơ hội, đặc biệt với các doanh nghiệp khoa học công nghệ - lực lượng được kỳ vọng tạo ra những giá trị bền vững, nâng tầm thương hiệu Việt trên trường quốc tế.
Tin liên quan
Tin khác
Khi nông nghiệp lớn lên cùng đại ngàn
Nâng chuẩn hàng hóa để xuất khẩu sang Hoa Kỳ
Tháo gỡ điểm nghẽn, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
Nhà máy điện gió Savan 1 của “Bầu Hiển” tại Lào chính thức vận hành thương mại
Quản trị lợi nhuận: Đừng chỉ quan tâm đến doanh thu
Thị hiếu thay đổi, chuỗi nông sản buộc tái cấu trúc
Thương hiệu cá nhân bền vững - “vốn liếng” đầu tiên của người trẻ khởi nghiệp
Tăng trưởng 43% tại nông thôn, mô hình WinMart+ cho thấy dư địa mở rộng dài hạn
Tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để làm chủ chuỗi cung ứng


