Để chào bán dự án PPP
Nhà nước chỉ “mở hầu bao” khi cần
Tại Hội nghị giới thiệu hai nghị định quan trọng nêu trên do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức mới đây, ông Lê Văn Tăng, Cục trưởng Cục Quản lý đấu thầu khẳng định, về mặt quy trình thực hiện dự án PPP, NĐ 15 đã tiệm cận với các khuyến nghị chính sách phát triển kết cấu hạ tầng của Diễn đàn Kinh tế thế giới.
Dự án đường cao tốc Dầu Giây |
Hướng đổi mới này, theo ông Tăng, nhằm thu hút mạnh mẽ đầu tư tư nhân nước ngoài, nguồn vốn từ các thị trường tài chính quốc tế tham gia dự án hạ tầng, bên cạnh việc khuyến khích sự tham gia của NĐT trong nước. Song song với đó, NĐT yêu cầu công khai hoá, minh bạch hoá thông tin dự án và danh mục dự án nhằm tạo lập môi trường đầu tư lành mạnh trong lĩnh vực này.
Điểm mới nổi bật của NĐ 15 là yêu cầu dự án phải thực hiện nghiên cứu và chuẩn bị đầu tư bài bản trước khi lựa chọn NĐT thực hiện dự án để đáp ứng yêu cầu khắt khe của các thị trường tài chính lớn và khó tính. Điều này nhằm chấm dứt tình trạng khi xác định dự án và NĐT rất nhanh nhưng giai đoạn triển khai gặp nhiều khó khăn.
“Đã đến lúc Việt Nam chào ra thị trường tài chính quốc tế cũng như trong nước những dự án đã được nghiên cứu và chuẩn bị chi tiết”, ông Tăng cho biết.
Đặt NĐ 30 trong mối liên hệ với Luật Đầu tư công, ông Hoàng Mạnh Phương, Phó vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, Nghị định này cũng đưa ra những quy định điều chỉnh sử dụng vốn đầu tư công một cách hiệu quả, phù hợp với định hướng làm vốn mồi cho các dự án PPP.
Theo đó, NĐ 15 quy định rõ về thủ tục thu xếp vốn công để đảm bảo khả năng hoàn vốn đối với các dự án không có đủ nguồn thu. Vốn đầu tư công được sử dụng với 3 mục đích: góp vốn xây dựng công trình dự án; thanh toán cho NĐT; hỗ trợ xây dựng công trình phụ trợ, giải phóng mặt bằng, tổ chức bồi thường và tái định cư.
“Chúng tôi xác định phải xây dựng cơ chế nhà nước góp vốn, không phải để ăn chia, hưởng lợi tức, mà để hỗ trợ dự án, làm sao để dự án từ chỗ không khả thi đến chỗ khả thi khi đưa ra hút vốn trên thị trường quốc tế”, ông Phương nói.
Ông phân tích thêm, quy trình sẽ đảo ngược từ chỗ trước đây khi NĐT có đề xuất dự án bao giờ cũng chạy lên hỏi nhà nước hỗ trợ được bao nhiêu, thì nay nếu thiếu nhà nước mới rót vốn. Cụ thể là qua xem xét dự án cần vốn bao nhiêu, lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn… trên cơ sở đó nếu thấy rằng NĐT chưa có lãi, dự án thiếu khả thi, thì nhà nước sẽ hỗ trợ một phần vốn.
Cơ chế tốt cho NĐT sáng tạo
Nếu NĐ 15 đánh dấu một bước đổi mới về thể chế trong hoạt động thu hút đầu tư tư nhân vào kết cấu hạ tầng và dịch vụ công thì NĐ 30 là sự hoàn thiện cơ chế đó. NĐ 30 bổ sung cơ chế cạnh tranh hướng tới hiệu quả tối ưu của các dự án trong lĩnh vực này. Có thể coi đây là cặp song sinh nhằm tạo lập môi trường đầu tư PPP tại Việt Nam.
NĐ 30 phân biệt rõ 2 phương thức NĐT tư nhân tiếp cận và tham gia vào dự án có mục đích công. Trong đó cách làm chủ đạo là nhà nước xác định ý tưởng, lập đề xuất dự án và báo cáo nghiên cứu khả thi, rồi NĐT tham gia đấu thầu và giành quyền thực hiện dự án. Trường hợp thứ hai là NĐT đề xuất ý tưởng, lập đề xuất dự án và báo cáo nghiên cứu khả thi, sau đó nhà nước tổ chức đấu thầu lựa chọn NĐT thực hiện dự án.
Mặc dù có nhiều ý kiến lo ngại việc NĐT chủ động đề xuất dự án có thể phát sinh hành vi không minh bạch và tham nhũng, nhưng nếu chặn cửa hoàn toàn, thì theo bà Vũ Quỳnh Lê, Chánh Văn phòng Hợp tác công tư PPP, có thể sẽ làm mất các sáng kiến, cơ hội tốt.
Bà Lê trấn an, khi thiết kế NĐ 15, ban soạn thảo đã thống nhất cho phép NĐT đề xuất dự án, nhưng có chế tài chặt chẽ thông qua báo cáo tiền khả thi phải được thẩm định độc lập, nghiêm túc. Khi được duyệt rồi thì đem ra lấy ý kiến rộng rãi.
Để tăng tính chủ động, sáng tạo của NĐT, NĐ 15 cũng quy định rõ NĐT đề xuất dự án sẽ được hưởng mức ưu đãi 5% trong đấu thầu. Tuỳ theo phương pháp đánh giá được lựa chọn cho dự án cụ thể, mức ưu đãi này được tính theo giá dịch vụ hoặc phần vốn góp của nhà nước hoặc lợi ích cho nhà nước, xã hội mà NĐT đã chào.
“Điều này có nghĩa là NĐT đề xuất dự án có thể thắng thầu với giá cao hơn 5% so với các NĐT khác, còn nếu không vống lên tới 50% thì chắc chắn là không thể được, phải theo giá thị trường”, ông Tăng bổ sung.
Hai Nghị định về PPP cũng tạo hành lang pháp lý cho sự tham gia rộng rãi của bên cho vay nhằm huy động các nguồn vốn, một số vấn đề lớn đã được xử lý. Đó là làm rõ cơ chế thực hiện quyền tiếp nhận dự án của bên cho vay (trong trường hợp NĐT không còn đủ năng lực thực hiện dự án) thông qua thoả thuận với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Một số biện pháp bảo đảm đầu tư là đặc thù của hình thức đầu tư PPP như bảo lãnh nghĩa vụ của NĐT, DN dự án và DN khác; bảo đảm quyền thế chấp dự án; bảo đảm thực hiện quyền sử dụng đất; bảo đảm cân đối ngoại tệ đã được làm rõ về cơ chế thực hiện.
Đấu thầu quốc tế được áp dụng là chủ yếu nhằm thu hút cả NĐT trong nước và nước ngoài tham gia vào các dự án PPP. Tuy nhiên, Nghị định cũng hạn chế NĐT nước ngoài tham gia vào dự án quy mô nhỏ chỉ dành cho NĐT trong nước.
Đồng thời, với các dự án PPP quy mô nhỏ, quy trình thủ tục dự án cũng sẽ được rút gọn. Việc đấu thầu dự án PPP nhóm C hoặc dự án có sử dụng đất mà sơ bộ tổng chi phí thực hiện dự án (không bao gồm chi phí bồi thường, giải phóng mặt bằng) dưới 20 tỷ đồng cũng được rút gọn về mặt thủ tục. Cụ thể là không bắt buộc áp dụng sơ tuyển, không thực hiện bước đàm phán sơ bộ hợp đồng, không cần ký kết thoả thuận đầu tư, đồng thời giảm các định mức về chi phí và thời gian.