Điểm lại thông tin kinh tế tuần từ 9-13/12
Thủ tướng: Hoàn thiện thêm một bước đề án về sắp xếp, tinh gọn bộ máy của Chính phủ Thủ tướng yêu cầu kịp thời chấn chỉnh công tác đấu giá quyền sử dụng đất |
Điểm lại thông tin kinh tế |
Tổng quan
Tại Nghị quyết số 233/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11 năm 2024 ban hành ngày 10/12/2024, Chính phủ yêu cầu các bộ ngành, địa phương vừa tăng tốc, bứt phá để quyết tâm đạt và vượt toàn bộ 15/15 chỉ tiêu, mục tiêu của năm 2024, vừa khẩn trương triển khai những nhiệm vụ mới, quan trọng, cấp bách, tạo đà, tạo lực, tạo thế, giữ nhịp cao hơn để thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025.
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2024 tiếp tục khẳng định sự phục hồi rõ nét, tháng sau tốt hơn tháng trước, tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước và tốt hơn cùng kỳ trên hầu hết các lĩnh vực; dự kiến đạt và vượt 15/15 chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội của cả năm 2024.
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm và có thặng dư cao. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân xu hướng giảm dần, 11 tháng tăng 3,69% so với cùng kỳ. Thị trường tiền tệ, tỷ giá cơ bản ổn định, được điều hành phù hợp với diễn biến thị trường; mặt bằng lãi suất tiếp tục xu hướng giảm; an toàn hệ thống ngân hàng được bảo đảm. Thu ngân sách nhà nước 11 tháng ước đạt 106,3% dự toán, tăng 16,1% so với cùng kỳ trong bối cảnh đã thực hiện miễn, giảm gia hạn khoảng 189 nghìn tỷ đồng thuế, phí, tiền sử dụng đất. Kim ngạch xuất nhập khẩu, xuất khẩu, nhập khẩu 11 tháng tăng lần lượt 15,4%, 14,4% và 16,4% so với cùng kỳ; xuất siêu ước đạt 24,31 tỷ USD. Nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát tốt, thấp hơn giới hạn cho phép.
Về các công tác, nhiệm vụ trong thời gian tới, Chính phủ thống nhất: (i) quyết liệt, khẩn trương sắp xếp, tinh gọn bộ máy tổ chức của Chính phủ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động theo Nghị quyết số 18-NQ/T tuần;
(ii) tập trung rà soát, tháo gỡ những điểm nghẽn, nút thắt về thể chế, cơ chế, chính sách, huy động tối đa các nguồn lực xã hội;
(iii) tiếp tục ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, quyết tâm hoàn thành cao nhất Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, tạo đà tăng tốc, bứt phá, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025;
(iv) quyết liệt, tăng tốc giải ngân vốn đầu tư công, thực hiện 03 Chương trình mục tiêu quốc gia, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, dự án trọng điểm, quan trọng quốc gia; khẩn trương hoàn thiện, ban hành và triển khai các quy hoạch trong năm 2024;
(v) tập trung cao độ thực hiện các giải pháp phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và các lĩnh vực trọng điểm; bảo đảm an ninh năng lượng, lương thực quốc gia; đẩy nhanh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế sáng tạo, các ngành, lĩnh vực mới, công nghệ cao;
(vi) phát triển mạnh thị trường và kích cầu tiêu dùng trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu; thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp phục vụ dịp cuối năm và Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi; quyết liệt tháo gỡ các dự án tồn đọng, yếu kém.
Trong đó, NHNN được giao những nhiệm vụ chính cụ thể sau:
Cùng với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, khẩn trương hoàn thành theo thời hạn cụ thể trong tháng 12/2024 các công việc liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy, gồm: (1) xây dựng báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/T tuần; (2) xây dựng đề án, phương án sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy theo yêu cầu, định hướng của Ban Chỉ đạo Trung ương, Ban Chỉ đạo của Chính phủ; (3) xây dựng dự thảo Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan sau sắp xếp; (4) rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến việc sắp xếp tổ chức bộ máy; (5) xây dựng Đề án thành lập Đảng bộ các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trực thuộc Đảng bộ Chính phủ, dự thảo Quy chế làm việc của Đảng bộ bộ, cơ quan.
Điều hành tỷ giá, lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và mục tiêu đề ra, giữ vững ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, thị trường vàng và an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Điều hành tăng trưởng tín dụng kịp thời, hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, thực hiện mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15% năm 2024. Chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiếp tục phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay; tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng kinh tế; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, giám sát việc cấp tín dụng, công bố lãi suất của các tổ chức tín dụng; kịp thời xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm.
Chỉ đạo các tổ chức tín dụng đẩy mạnh cho vay phục vụ sản xuất, kinh doanh, nhu cầu tiêu dùng dịp cuối năm và Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025; nghiên cứu xây dựng các sản phẩm tín dụng, dịch vụ ngân hàng dành riêng cho lĩnh vực tiêu dùng, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận vốn vay nhằm thúc đẩy tiêu dùng, phát triển kinh tế. Khẩn trương trình trước ngày 20/12/2024 phương án chuyển giao bắt buộc 02 ngân hàng kiểm soát đặt biệt còn lại (Ngân hàng TMCP Dầu khí toàn cầu, Ngân hàng TMCP Đông Á); sớm thực hiện theo thẩm quyền hoặc trình cấp thẩm quyền phương án xử lý đối với Ngân hàng TMCP Sài Gòn, không để chậm trễ hơn nữa.
Tóm lược thị trường trong nước tuần từ 9-13/12
Thị trường ngoại tệ, trong tuần từ 9-13/12, tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh tăng – giảm đan xen. Chốt ngày 13/12, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 24.264 VND/USD, tăng 09 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Sở giao dịch NHNN tiếp tục niêm yết tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.400 VND/USD và tỷ giá bán giao ngay ở mức 25.450 VND/USD.
Tỷ giá đô-đồng liên ngân hàng trong tuần từ 9-13/12 giảm phiên đầu tuần rồi tăng trở lại. Kết thúc phiên 13/12, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 25.403, tăng 14 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá đô-đồng trên thị trường tự do diễn biến theo xu hướng giảm. Chốt phiên 13/12, tỷ giá tự do giảm 140 đồng ở cả hai chiều mua vào và bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 25.550 VND/USD và 25.650 VND/USD.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng, tuần từ 9-13/12, lãi suất VND liên ngân hàng tăng đầu tuần và chỉ giảm phiên cuối tuần. Chốt ngày 13/12, lãi suất VND liên ngân hàng giao dịch ở mức: qua đêm 4,08% (+0,08 điểm phần trăm); 1 tuần 4,43% (+0,16 điểm phần trăm); 2 tuần 4,58% (+0,11 điểm phần trăm); 1 tháng 5,12% (+0,35 điểm phần trăm).
Lãi suất USD liên ngân hàng biến động nhẹ trong tuần qua. Phiên 13/12, lãi suất USD liên ngân hàng, giao dịch tại: qua đêm 4,61% (+0,01 điểm phần trăm); 1 tuần 4,66% (không thay đổi); 2 tuần 4,71% (không đổi) và 1 tháng 4,75% (-0,01 điểm phần trăm).
Trên thị trường mở tuần qua từ 09/12 - 13/12, ở kênh cầm cố, NHNN chào thầu kỳ hạn 7 ngày với khối lượng là 51.000 tỷ đồng, lãi suất giữ ở mức 4,0%. Có 50.999,89 tỷ đồng trúng thầu, có 30.000 tỷ đồng đáo hạn trong tuần qua trên kênh cầm cố.
NHNN chào thầu tín phiếu NHNN đấu thầu lãi suất ở 2 kỳ hạn 14 ngày và 28 ngày. Có 14.750 tỷ đồng trúng thầu ở kỳ hạn 14 ngày, lãi suất ở mức 4,0%, có 2.200 tỷ đồng trúng thầu ở kỳ hạn 28 ngày, lãi suất ở mức 4,0%. Có 2.550 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn trong tuần qua.
Như vậy, NHNN bơm ròng 6.599,89 tỷ đồng ra thị trường trong tuần qua bằng kênh thị trường mở. Có 50.999,89 tỷ đồng lưu hành trên kênh cầm cố, có 51.005 tỷ đồng tín phiếu NHNN lưu hành trên thị trường.
Thị trường trái phiếu, ngày 11/12, Kho bạc nhà nước đấu thầu thành công 1.740 tỷ đồng/9.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ gọi thầu, tỷ lệ trúng thầu đạt 19%. Trong đó, kỳ hạn 5 năm trúng 500 tỷ đồng/2.000 tỷ đồng gọi thầu, kỳ hạn 10 năm huy động được 1.200 tỷ đồng/4.500 tỷ đồng gọi thầu và kỳ hạn 30 năm huy động được 40 tỷ đồng/1.500 tỷ đồng gọi thầu. Riêng kỳ hạn 15 năm gọi thầu 1.000 tỷ đồng nhưng không có khối lượng trúng thầu. Lãi suất trúng thầu ở kỳ hạn 5 năm là 2,0% (+0,09 điểm phần trăm so với phiên đấu thầu trước đó), 10 năm là 2,73% (+0,07 điểm phần trăm) và 30 năm là 3,18% (+0,08 điểm phần trăm).
Trong tuần này, ngày 18/12, Kho bạc nhà nước dự kiến chào thầu 9.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trong đó kỳ hạn 5 năm chào thầu 2.000 tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm chào thầu 4.500 tỷ đồng, kỳ hạn 15 năm chào thầu 1.000 tỷ đồng và kỳ hạn 30 năm chào thầu 1.500 tỷ đồng.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 29.255 tỷ đồng/phiên, tăng rất mạnh so với mức 9.030 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất trái phiếu chính phủ trong tuần qua có xu hướng tăng ở tất cả các kỳ hạn. Chốt phiên 13/12, lợi suất trái phiếu chính phủ giao dịch quanh 1 năm 1,86% (+0,02 điểm phần trăm so với phiên cuối tuần trước); 2 năm 1,88% (+0,03 điểm phần trăm); 3 năm 1,90% (+0,03 điểm phần trăm); 5 năm 2,14% (+0,14 điểm phần trăm); 7 năm 2,37% (+0,04 điểm phần trăm); 10 năm 2.84% (+0,05 điểm phần trăm); 15 năm 3,02% (+0,04 điểm phần trăm); 30 năm 3,18% (+0,01 điểm phần trăm).
Thị trường chứng khoán, tuần từ 09/12 - 13/12, các chỉ số trên thị trường chứng khoán giảm nhẹ ở hầu hết các phiên. Kết thúc phiên 13/12, VN-Index đứng ở mức 1.262,57 điểm, giảm 7,57 điểm (-0,60%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index mất 1,92 điểm (-0,84%) về mức 227,0 điểm; UPCoM-Index lùi 0,27 điểm (-0,29%) còn 92,54 điểm.
Thanh khoản thị trường trung bình đạt khoảng 15.100 tỷ đồng/phiên, giảm từ mức 17.000 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại bán ròng trên 1.544 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Tin quốc tế
Nước Mỹ ghi nhận một số chỉ báo kinh tế đáng chú ý. Đầu tiên, về lạm phát, Văn phòng Thống kê Lao động Mỹ BLS công bố chỉ số giá tiêu dùng CPI toàn phần và CPI lõi nước này cùng tăng 0,3% so với tháng trước trong tháng 11 sau khi lần lượt tăng 0,2% và 0,3% trong tháng 10, đồng thời khớp với dự báo của các chuyên gia. So với cùng kỳ năm 2023, CPI toàn phần và CPI lõi lần lượt tăng 2,7% và 3,3% so với cùng kỳ trong tháng 11, không thay đổi nhiều so với mức 2,6% và 3,3% của tháng trước đó.
Tiếp theo, BLS cho biết chỉ số giá sản xuất PPI toàn phần tại nước này tăng 0,4% so với tháng trước trong tháng 11 sau khi tăng 0,3% ở tháng 10, mạnh hơn mức tăng 0,2% theo dự báo. Bên cạnh đó, PPI lõi tại Mỹ tăng 0,2% trong tháng 11 sau khi tăng 0,3% ở tháng 10, khớp với dự báo. So với cùng kỳ năm 2023, PPI toàn phần và PPI lõi lần lượt tăng 3,0% và 3,5% so với cùng kỳ, mở rộng so với mức 2,6% và 3,5% của tháng 10.
Tại thị trường lao động, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại Mỹ tuần kết thúc ngày 06/12 ở mức 242 nghìn đơn, tăng lên từ mức 225 nghìn của tuần trước đó và đồng thời cao hơn mức 221 nghìn đơn theo dự báo. Số đơn trung bình 4 tuần gần nhất ở mức 224,25 nghìn đơn, tăng 5,75 nghìn so với trung bình 4 tuần liền trước.
Trong tuần này, thị trường chờ đợi thông tin về cuộc họp của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Fed, diễn ra ngày 17-18/12. Kết quả của cuộc họp được công bố sáng sớm ngày 19/12 theo giờ Việt Nam. Theo dự báo của CME, có 95% khả năng Fed sẽ hạ lãi suất chính sách 25 điểm cơ bản trong cuộc họp này, và chỉ có 5% khả năng giữ lãi suất chính sách đi ngang ở mức 4,5% - 4,75%. Ngoài ra, sau cuộc họp, Fed cũng công bố dự báo GDP, lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp và lãi suất chính sách trong năm 2025 và trong dài hạn.
Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) hạ lãi suất chính sách trong cuộc họp cuối năm, bên cạnh đó khu vực Eurozone đón một số chỉ báo kinh tế quan trọng. Trong cuộc họp ngày 12/12, ECB nhận định quá trình giảm lạm phát đang diễn ra thuận lợi. Cơ quan này dự báo lạm phát toàn phần trung bình năm 2024 là 2,4%, 2025 là 2,1% và 2026 là 1,9%. Lạm phát lõi trong các năm này được dự báo lần lượt ở mức 2,9%, 2,3% và 1,9%.
Tiếp theo, ECB dự báo GDP Eurozone sẽ tăng trưởng 0,7% năm 2024, 1,1% năm 2025 và 1,4% năm 2026. Hội đồng Điều hành của ECB cho thấy quyết tâm đảm bảo lạm phát sẽ ổn định bền vững ở mức mục tiêu 2,0%. Trong cuộc họp lần này, ECB quyết định hạ các loại lãi suất chính sách 25 đcb. Theo đó, lãi suất cho vay tái cấp vốn, LS cho vay cận biên và lãi suất tiền gửi tại ECB lần lượt xuống còn 3,0%; 3,15% và 3,4%. ECB sẽ tiếp tục dựa vào các dữ liệu trong từng cuộc họp tiếp theo để xác định lập trường chính sách tiền tệ phù hợp. ECB không cam kết về bất kỳ một lộ trình lãi suất chính sách cụ thể nào.
Liên quan đến kinh tế Eurozone, sản lượng công nghiệp của khu vực này đi ngang (0,0% so với tháng trước) trong tháng 10 sau khi giảm khá mạnh 1,5% ở tháng trước đó, khớp với dự báo của các chuyên gia. So với cùng kỳ năm 2023, sản lượng công nghiệp Eurozone giảm khoảng 1,2% so với cùng kỳ.
Tiếp theo, tại nước Đức, chỉ số giá tiêu dùng CPI toàn phần tại nước này chính thức giảm 0,2% so với tháng trước trong tháng 11, không điều chỉnh so với kết quả thống kê sơ bộ, đồng thời khớp với dự báo của các chuyên gia. So với cùng kỳ năm 2023, CPI Đức vẫn tăng khoảng 2,2% so với cùng kỳ trong tháng vừa qua, cao hơn so với mức 2,0% ghi nhận ở tháng 10. Cuối cùng, cán cân thương mại Đức thặng dư 13,4 tỷ EUR trong tháng 10, thấp hơn mức 16,9 tỷ của tháng 9 và đồng thời thấp hơn mức 15,7 tỷ theo dự báo.