Đọc lại “Ông đồ” trên con tàu 4.0
Xin chữ ông đồ là một mỹ tục của nhân dân ta từ bao đời nay, nhưng từ khi chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ, chữ nho không còn được trọng, ngày Tết không mấy ai sắm câu đối hoặc chơi chữ, ông đồ trở nên thất thế và bị gạt ra “vỉa hè” của xã hội. Ấy là thời kỳ Nho học đã bước vào suy tàn, Đạo học đã suy vi: Đạo học làng ta chán lắm rồi / Mười người đi học chín người thôi (Tú Xương) và hình ảnh ông đồ khi ấy chỉ còn là “cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” như chính nhà thơ Vũ Đình Liên sau này đã thừa nhận.
![]() |
| Tranh Ông đồ của danh họa Bùi Xuân Phái |
Vì thế, bài thơ không chỉ là tình cảnh đáng thương của một ông đồ cụ thể, sự phai tàn của một mỹ tục cụ thể, mà là quá trình thủ tiêu của một giá trị văn hóa đã góp phần làm nên hồn cốt của dân tộc Việt Nam. Bài thơ gồm 20 câu, chia thành 5 khổ, chỉ ra 4 “cấp độ” của “cái chết từ từ” ấy.
Hai khổ thơ đầu là dấu hiệu suy tàn của một giá trị văn hóa truyền thống:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Hình ảnh ông đồ già xuất hiện cùng với hoa đào nở, từ lâu đã trở thành những hình ảnh thân quen của ngày Tết, của mùa xuân. Mặc dù bấy giờ học trò đã đua nhau “vứt bút lông đi, giắt bút chì” (Tú Xương), nhưng người ta vẫn còn giữ nếp chơi câu đối và chơi chữ.
Lâu nay nhiều người vẫn bình phẩm rằng hai khổ thơ này nhắc lại thời vàng son, hoàng kim của Đạo học, của chữ Nho. Đâu phải thế! Bởi tác giả cho thấy thay vì đến trường, đến nhà thầy để xin chữ như trước đây, thì đã đến thời người ta ra phố mua chữ. Khi chữ nghĩa được mua bán sòng phẳng thì ý nghĩa thiêng liêng đã bị suy giảm đáng kể.
Ông đồ vốn là thầy giáo ở trường lớp hoặc gia sư trong các gia đình, nay phải ra “bày mực tàu, giấy đỏ / Bên phố đông người qua” thì vị thế đã đáng thương cảm lắm rồi. Cho nên, mặc dù vẫn được khen là chữ đẹp “Như phượng múa rồng bay” thì đấy cũng chỉ là lời khen của những người “thuê viết”, chẳng lấy gì làm vẻ vang cho lắm!
Đến khổ thứ ba thì sự suy tàn không còn là dấu hiệu nữa mà đã có những hậu quả hiện hữu:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đựng trong nghiên sầu…
Chữ “Nhưng” mở đầu khổ thơ như là một bản lề mở sang một thời kỳ khác của cuộc đời ông đồ. Trước chữ “nhưng” là một thời kỳ dù sao cũng còn có công ăn việc làm, cuộc sống còn dễ chịu. Sau chữ “nhưng” ấy là một thời kỳ khác. Sự khác biệt đó diễn ra từ từ “Mỗi năm mỗi vắng”, đến lúc không còn ai nữa: “Người thuê viết nay đâu?”. Vậy là hết! Ông đồ buồn, tất nhiên. Rồi những vật dụng đặc trưng gắn liền mỹ tục cho chữ, xin chữ cũng buồn theo: Giấy đỏ buồn không thắm / Mực đọng trong nghiên sầu...
Sang khổ thơ thứ tư, ông đồ còn sống nhưng khác nào đã chết:
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay...
Đến đây thì cái sự “tội nghiệp, đáng thương” của ông đồ hiện ra thật thảm hại. Ông “vẫn ngồi đấy”, nhưng người đời đã quên ông, không thèm nhìn ông. Ông như một người thừa, cô đơn giữa một xã hội tân thời. Xung quanh ông chỉ có lá vàng vô tình rơi và “ngoài trời mưa bụi bay”. Khung cảnh mới ảm đạm thê thảm làm sao! Mùa xuân mà có “lá vàng rơi”? Lá vàng đây là chỉ một hình ảnh biểu tượng của sự già cỗi, tàn úa, rơi rụng... Lá vàng cùng với làn mưa bụi đã làm nên tấm vải liệm tiễn đưa ông đồ về quá khứ...
Và khổ thơ thứ năm, khổ thơ cuối cùng, là lời ai điếu cho ông đồ già đã vĩnh viễn lìa xa, không còn trên cõi đời này nữa:
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Vũ trụ vẫn tuần hoàn bất biến: “Năm nay đào lại nở”. Nhưng “ông đồ già” trong khổ thơ mở đầu đã trở thành “ông đồ xưa”, thành “người muôn năm cũ” trong khổ thơ cuối cùng. Thời gian đã hoàn thành sứ mệnh của nó. Cuộc xâm lăng của nền “Tây học” đã hoàn tất!
Như thế, thì bài thơ “Ông đồ” đã cảnh báo vấn đề “vong bản” từ rất sớm. Và ngày nay, trong thời đại hội nhập toàn cầu, vấn đề càng trở nên thời sự, cấp thiết. Đặc biệt, khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra nhiều cơ hội trong việc nâng cao trình độ công nghệ, năng lực sản xuất và cạnh tranh; tạo điều kiện cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa bằng cách đi tắt, đón đầu, phát triển nhảy vọt.
Chính vì vậy, Đảng ta xác định cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang là một thời cơ mà chúng ta phải nắm bắt lấy nó. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhiều lần tuyên bố: “Với quyết tâm của cả hệ thống chính trị và ý chí của dân tộc Việt Nam, chúng ta sẵn sàng vượt qua thách thức để nắm bắt lấy cơ hội, nhanh chóng bước lên con tàu 4.0”.
Tuy nhiên, thời cơ luôn đi liền cùng thách thức. Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng, kéo theo nhiều hệ lụy xã hội. Sự liên kết và gắn kết trong môi trường kỹ thuật số sẽ dẫn tới những vấn đề về “biên giới mềm”, “quyền lực mềm”, an ninh không gian mạng, an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao xuyên quốc gia...
Đặc biệt là nguy cơ “hòa tan” bản sắc dân tộc trong “thế giới phẳng”. Khi đó, dải đất hình chữ S vẫn hiện diện trên trái đất này, nhưng liệu hồn cốt dân tộc Việt Nam có còn không?
Giao lưu và hội nhập văn hóa có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển nền văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Nhưng hội nhập bao giờ cũng có 2 mặt. Mặt tích cực là sẽ giúp cho văn hóa mỗi dân tộc luôn phát triển, tiếp nhận được những tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác để bồi đắp thêm cho văn hóa của dân tộc mình.
Tuy nhiên, cùng đó là nguy cơ “đồng hóa” các hệ giá trị, các chuẩn mực văn hóa dân tộc, đe dọa tính sáng tạo của các nền văn hóa dân tộc, dẫn đến tình trạng “vong bản”, thậm chí thủ tiêu các giá trị văn hóa dân tộc. Điều này trong lịch sử đã từng xảy ra với một số dân tộc trên thế giới.
Bản sắc văn hóa của một dân tộc chính là cốt cách của dân tộc ấy. Vì vậy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cũng chính là giữ gìn cốt cách của dân tộc. Và một nền văn hóa giữ được cốt cách dân tộc sẽ là một nền văn hóa có đủ nội lực đề kháng, chống lại các cuộc "xâm lăng văn hóa" từ bên ngoài. Một nền văn hóa như vậy mới đủ tự tin và bản lĩnh để tiếp nhận chọn lọc những giá trị văn hóa của các dân tộc khác, "dân tộc hóa" những giá trị văn hóa nhân loại để đồng hành cùng nhân loại.
Đó là thông điệp thời sự của bài thơ “Ông đồ”!
Tin liên quan
Tin khác
Khi văn hóa – lịch sử “kết duyên” cùng hội họa
Hội đồng Anh khởi động Chương trình tài trợ Kết nối thông qua Văn hóa
Làng cờ Từ Vân tích cực sản xuất phục vụ đại lễ
Kế hoạch triển khai Nghị quyết của Quốc hội về CTMTQG phát triển văn hóa
Sân chơi trong thành phố: Niềm cảm hứng từ nửa vòng trái đất
Thi đua không phải khẩu hiệu, mà là cam kết hành động
Ra mắt Tập 22 Công trình sách “Ký ức người lính”
[Infographic] Chuỗi hoạt động văn hóa đặc sắc tại Phố cổ Hà Nội
Bước đi mới trong giáo dục khai phóng tại Victoria School



