Huệ Ninh: “Tác phẩm là tiếng nói chung”
Là một cây bút trẻ, bạn lựa chọn đề tài trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, đó có phải là lựa chọn dũng cảm? Bạn có nghĩ đề tài này quá sức với một người viết trẻ, nhất là đối với phụ nữ?
Tôi không thấy dũng cảm gì trong việc chọn đề tài vì đã là người sáng tác chuyên nghiệp thì đề tài nào cũng phải viết được. Trước Cách mạng tháng Tám hay lâu hơn nữa, hoặc ở thì tương lai, chuyện trên cung trăng, dưới địa ngục… đều làm được hết. Vấn đề là ở cách khai thác sao cho nó hấp dẫn. Với người viết thì độ trẻ và độ già không thể tính bằng thẻ chứng minh nhân dân.
Nói về tuổi đời, có thể tôi còn trẻ, nhưng tuổi nghề thì tôi đã có hơn 10 năm cầm bút, không biết có được gọi là trẻ nữa không? Khi đã đạt đến độ sáng tác chuyên nghiệp, thì chẳng nên phân biệt giới tính người viết. Tác phẩm là tiếng nói chung để mọi người hiểu được.
Tác phẩm này không phải viết về cá nhân hay liên quan gì đến vốn sống riêng tư. Truyện phim và tiểu thuyết “Cây nước mắt” của tôi không dây dưa gì với cái tôi cá nhân hết.
Điều gì đã khiến bạn lựa chọn viết “Cây nước mắt”, với dung lượng lớn đến 700 trang? Bạn có lo ngại rằng, với điều kiện về thời gian như hiện nay, điều đó sẽ gây mệt mỏi cho người đọc?
Viết “Cây nước mắt” là duyên nghiệp, không phải sự lựa chọn. Tôi được đặt hàng viết kịch bản về đề tài cao su, cách đây 7 năm (2008) khi tôi chưa biết “mặt mũi” cây cao su ra sao, cũng chẳng thông thuộc lịch sử thời ấy, vùng đất ấy; lại còn chưa có mối tình vắt vai nào.
Phải nói rằng, tác phẩm này đã lựa chọn tôi. Sau thời gian lận đận để bộ phim ra đời, thì tôi thấy dư luận về nó rất tốt. Những người tiếp nhận: từ người có trình độ cao như biên tập, đạo diễn, nhà duyệt phim… cho tới hệ thống độc giả không am tường về văn chương nhiều lắm như các diễn viên, các thành phần làm phim đều yêu thích câu chuyện một cách đặc biệt.
Tôi cũng nhận được nhiều lời khen ngợi, nhiều hợp đồng kịch bản khác từ sau bộ phim này. Đó là điều khiến tôi nảy ra ý tưởng phải chuyển nó thành văn học. Cho đến khi phim được sản xuất thì không ít yếu tố khác biệt với suy tưởng của tôi, đặc biệt là việc lựa chọn diễn viên.
Nhiều chỗ tôi không vừa lòng. Cho nên tôi quyết tâm hoàn thành tiểu thuyết để ý tưởng của mình được giữ nguyên giá trị biểu cảm của nó khi đến với độc giả.
Có một điều tôi nhận thấy khi đi liên hệ in cuốn tiểu thuyết này là ai cũng ngại đọc dài. Một phần trong số đó không tin vào năng lực của người viết. Những người cùng thời không tin người chưa có danh sẽ có tác phẩm lớn, tác phẩm để đời, cho nên họ nảy sinh tâm lý chung đó.
Vấn đề là vẫn nhiều độc giả tìm đến với văn học cổ điển, sách best seller hiện đại dày hơn sách của tôi rất nhiều. Nghĩa là dài hay ngắn với tác phẩm hay là không quan trọng. Quan trọng là tác phẩm có hay không. Tôi luôn phấn đấu hình thành những tác phẩm hay.
Và với sự hấp dẫn đã được nhiều độc giả ghi nhận tôi tin “Cây nước mắt” không những không gây mệt mỏi với độc giả mà sẽ cuốn hút họ trong sự say mê, hào hứng.
Không nhiều bạn trẻ lựa chọn đề tài lịch sử, cũng như đề tài chiến tranh cách mạng. Vậy khi viết, bạn có lo sợ mình bị hụt hơi, hoặc trong khi viết, bạn có lúc nào bị nản?
Đã làm người viết chuyên nghiệp thì phải bắt mình không được hụt hơi hay nản trong khi viết. Cứ có đầu tư, hoặc có mục đích cụ thể là sẽ phải cố mà hoàn thành. Quá khứ là cả một quặng vàng bất tận, nên khai thác đề tài lịch sử hay chiến tranh cách mạng là một sự hào hứng với tôi. Miễn sao tôi đặt được cái nhìn vào đấy một cách hấp dẫn, thuyết phục, với cách nhìn tươi mới. Tôi chinh phục được mình sẽ tự thấy niềm vui trong sáng tạo, và như vậy nhất định sẽ cảm hóa được người đọc.
Tuy nhiên trong lúc viết tôi đã vấp phải không ít khó khăn. Khó khăn ở việc sáng tạo không nhiều bằng khó khăn trong cuộc sống. Vật cản luôn luôn diễn ra chẳng mấy lúc để yên cho ai ngồi mà viết lách: cơm áo, gạo tiền, tật bệnh, các mối quan hệ phức tạp…
Nhưng rồi tôi vượt lên được tất cả là nhờ học tập chính các nhân vật của mình. Tôi đặt mình vào họ. Họ là những con người có thật và là những con người lý tưởng. Họ vượt qua được những hoàn cảnh khắc nghiệt, khốn cùng, bi ai nhất. Dù sao thì tôi – một người ở thời đại này – cũng vô vàn sung sướng, đủ đầy hơn họ. Vậy sao tôi lại cho phép mình nản, sao lại không thể vượt qua? Khó khăn chỉ là nhất thời.
Lúc này tắc bút, đào sâu suy nghĩ đi, học hỏi nhiều nữa, nhất định sẽ vượt được qua và thăng hoa. Họ - con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh lịch sử nào cũng phải sống và khát khao đến những giá trị tốt đẹp. Tôi cũng thế, chưa chết được thì phải sống, chưa viết xong thì phải viết cho bằng xong. Tiền đầu tư nhận rồi, hứa hon rồi, thì phải viết thôi.
Qua tiểu thuyết này, chị muốn chuyển thông điệp gì đến bạn đọc?
Mỗi người tự tìm ra chân lý, thông điệp trong câu chuyện hay. Miễn sao mình phải cố gắng làm cho nó thật hay và hấp dẫn. Tôi không phải là nhà đạo đức, nhà luân lý hay nhà tư tưởng. Tự tác phẩm sẽ nói nên thông điệp của riêng nó. Chỉ có điều từ lúc hoài thai tới khi tác phẩm ra đời, ra thị trường và được đón nhận là cả một quá trình dài và gian nan.
Có thể nói nó đã phần nào thành công. Bài học tôi nhận được trong chặng đường này là hãy lao động hết mình, không bỏ cuộc thì nhất định sẽ có thành quả tốt. Và ở góc độ của bản thân tôi nhận ra câu chuyện trong tiểu thuyết cũng có một thông điệp tương tự như thế.
Các nhân vật sống thật với những gì tốt đẹp nhất trong tâm hồn họ, có tình yêu, khát vọng chính đáng và biết đi tới cùng thì rồi sẽ có “happy end”. Đó còn là thành quả thật của lịch sử cách mạng nước ta và của hiện thực khách quan.