Hướng tới một cơ chế thuế giá trị gia tăng thúc đẩy đầu tư
Góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) mà Bộ Tài chính đang lấy ý kiến, các doanh nghiệp và chuyên gia nhận định dự thảo đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định đang có vướng mắc, bất cập khi thực hiện trên thực tế. Đặc biệt doanh nghiệp đánh giá cao đối với sửa đổi về hoàn thuế GTGT đối với dự án đầu tư. Tuy nhiên, các doanh nghiệp và Hiệp hội cũng chỉ ra một số vấn đề về cách tính thuế và đối tượng áp dụng cần cân nhắc và xem xét khi xây dựng nghị định này.
Ảnh minh họa |
Ví như các doanh nghiệp cho rằng, dự thảo bỏ quy định “tổ chức, cá nhân chuyển nhượng dự án đầu tư để sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT cho doanh nghiệp, hợp tác xã” thuộc trường hợp không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT là chưa hợp lý, nên giữ nguyên như cũ. Bởi việc chuyển nhượng dự án đầu tư và chuyển nhượng một phần dự án đầu tư, phải thực hiện theo trình tự thủ tục quy định tại pháp luật về đầu tư và các luật chuyên ngành liên quan và phải thực hiện với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được phép thực hiện. Trong khi đó, chuyển nhượng tài sản có tính chất là giao dịch dân sự đơn thuần, các bên trong giao dịch không cần thực hiện các trình tự thủ tục như hoạt động chuyển nhượng dự án đầu tư. Như vậy, lý do mà ban soạn thảo đưa ra khi bỏ quy định này là khó phân biệt giữa chuyển nhượng dự án đầu tư và chuyển nhượng tài sản là không hợp lý.
Hơn thế theo phản ánh của doanh nghiệp, trong bối cảnh hiện nay, nhiều doanh nghiệp đang chịu tác động nặng nề của dịch Covid -19, dẫn đến khó khăn trong việc triển khai các dự án đầu tư. Vì vậy để khuyến khích các nhà đầu tư có năng lực tài chính nhận chuyển nhượng dự án đầu tư và tiếp tục triển khai thì quy định việc chuyển nhượng dự án đầu tư thuộc đối tượng không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT và không phân biệt việc chuyển nhượng dự án đầu tư là để sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT hay không chịu thuế GTGT là cần thiết. Bởi vì, nếu tính thuế GTGT với dự án đầu tư sẽ tạo ra khó khăn cho bên nhận chuyển nhượng. Dự án thường ở giai đoạn ban đầu, dù phát sinh thuế GTGT được khấu trừ nhưng còn thời gian dài mới đến giai đoạn phát sinh thuế GTGT đầu ra để bù trừ nên thường phải mất rất nhiều năm để khấu trừ hết thuế GTGT đầu vào. Hậu quả là doanh nghiệp chịu chi phí vốn quá lớn, không đảm bảo nguyên tắc gián thu của thuế GTGT.
Các doanh nghiệp cho rằng quy định thời điểm xác định giá tính thuế đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, cho là giá tính thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, cho trong dự thảo là chưa hợp lý. Vì sẽ có chênh lệch giữa giá trị hàng hóa thời điểm mua về làm quà và thời điểm cho, biếu, tặng. Điều này số thuế GTGT có thể cao hơn khiến cho người nộp thuế phải nộp thêm thuế, trong khi việc cho, biếu, tặng không mang lại doanh thu cho doanh nghiệp. Vì vậy Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đề xuất sửa đổi quy định theo hướng, đối với hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp phải mua vào thì giá tính thuế GTGT là giá trên hóa đơn GTGT đầu vào.
Dự thảo quy định về xác định giá đất được trừ để tính thuế GTGT trong trường hợp được nhà nước giao đất để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng xây dựng nhà để bán. Tuy nhiên, dự thảo chưa quy định rõ tiền sử dụng đất không được xem là doanh thu không chịu thuế GTGT khi tính thuế GTGT không được khấu trừ của hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT. Với bản chất của đối tượng chịu thuế GTGT là tính trên GTGT của hàng hóa, dịch vụ, trong khi đó phần tiền đất tương ứng mà chủ đầu tư trả cho nhà nước, chủ đầu tư không phát sinh, không tạo ra GTGT của phần tiền đất này. Vì vậy, nếu phải thực hiện phân bổ thì chưa phù hợp với bản chất của thuế GTGT và gây bất lợi cho doanh nghiệp. Trên thực tế, cơ quan thuế ở các địa phương có cách xử lý khác nhau với nội dung trên (có trường hợp yêu cầu phân bổ, có trường hợp không). Vì vậy, cần có quy định rõ ràng để áp dụng thống nhất và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
“Về cơ bản các quy định sửa đổi, bổ sung tại dự thảo liên quan đến hoàn thuế đối với dự án đầu tư là hợp lý, giải quyết được khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, đặc biệt là quy định hoàn thuế quy định tại Điểm 2.a Điều 10 dự thảo”, VCCI nhận định. Tuy nhiên, các doanh nghiệp đề nghị, bổ sung quy định cho phép hoàn thuế GTGT với số thuế GTGT lũy kế 12 tháng/4 quý liên tục chưa khấu trừ hết; Bổ sung quy định cho phép hoàn thuế cho trường hợp sản xuất hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT 5% nhưng đầu vào chủ yếu thuộc đối tượng chịu thuế GTGT 10% nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết sau 12 tháng hoặc 4 quý.
Lý giải về đề xuất này, VCCI phân tích về nguyên tắc, thuế GTGT tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ từ khâu sản xuất, lưu thông tới tiêu dùng cuối cùng. Theo đó, doanh nghiệp sẽ luôn phát sinh thuế GTGT phải nộp sau khi khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Tuy nhiên, trên thực tế còn tồn tại một số trường hợp phát sinh số thuế GTGT đầu vào lớn hơn đầu ra khiến doanh nghiệp bị tồn đọng số thuế GTGT đầu vào lớn trong thời gian dài, gây khó khăn về vốn cho doanh nghiệp trong doanh nghiệp vẫn phải đi vay, đặc biệt trong giai đoạn phải đối phó với tình hình dịch bệnh như hiện nay.
Vì vậy, việc bổ sung các quy định cho phép hoàn thuế như trên sẽ hỗ trợ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn khi bị tồn đọng số thuế GTGT chưa được khấu trừ trong giai đoạn dài, ảnh hưởng tới dòng tiền của doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.