Khẳng định thương hiệu nông sản Đồng bằng sông Cửu Long
Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được xem là vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp và thủy sản của cả nước khi hàng năm đóng góp đến 70% lượng thủy sản nuôi trồng; 54,5 sản lượng lúa; 36,5% lượng trái cây toàn quốc. Đây cũng là nơi cung cấp 90% sản lượng lúa gạo xuất khẩu và 65% sản lượng thủy sản xuất khẩu của cả nước.
Song tác động của biến đổi khí hậu đối với ĐBSCL, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp/lúa gạo dẫn tới tính dễ bị tổn thương của 17,3 triệu nông dân, chủ yếu là nông hộ nhỏ và người nghèo.
Lúa thơm - tôm sạch là một thương hiệu của vùng Đồng bằng sông Cửu Long |
Thực hiện chương trình chuyển đổi cơ cấu vật nuôi và cây trồng, đặc biệt đối với vùng canh tác lúa - tôm, trên cơ sở khai thác hiệu quả tiềm năng và lợi thế đã biến những hạn chế về điều kiện sinh thái tự nhiên thành thế mạnh của vùng. Nhiều tỉnh, thành ven biển như: Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang… đã tích cực triển khai chương trình vận hành và quản lý hiệu quả mô hình, góp phần nâng cao lợi nhuận cho người sản xuất.
Ông Phạm Văn Thiều, Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu chia sẻ, từ thực tiễn áp dụng mô hình lúa - tôm tại tỉnh Bạc Liêu, hiệu quả bước đầu mang lại từ mô hình này khá cao so với độc canh cây lúa. Đến năm 2021 diện tích mô hình này đã đạt gần 40 nghìn ha, chiếm khoảng hơn 33% diện tích nuôi tôm toàn tỉnh Bạc Liêu (tốc độ tăng diện tích bình quân/năm là 5,26%). Hiện, tổng thu nhập của người nuôi trồng là trên 90 triệu đồng/ha/năm; lợi nhuận 40 - 60 triệu đồng/ha/năm.
Xét về chuyển dịch cơ cấu, mô hình canh tác lúa - tôm tăng qua từng năm cả về diện tích, năng suất và giá trị gia tăng. Có thể nói đây là mô hình bền vững, hiệu quả, "thông minh" tạo ra các sản phẩm sạch, phù hợp với quy trình GAP, giúp nông dân áp dụng các biện pháp canh tác, phòng chống dịch ít sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… Từ đó nâng cao giá trị, chất lượng sản phẩm hàng hóa, khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đây là tiền đề thuận lợi để nhân rộng mô hình lúa thơm - tôm sạch ra toàn tỉnh Bạc Liêu nói riêng và toàn vùng ĐBSCL nói chung.
Về dài hạn, mô hình lúa - tôm vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhất là biến đổi khí hậu, nước biển dâng và gần đây là hiện tượng hạn hán, xâm nhập mặn đang là mối đe dọa trực tiếp đến sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội của cả vùng ĐBSCL. Nguồn tôm giống chất lượng chưa được người nuôi quan tâm, môi trường nước có nguy cơ ô nhiễm, dịch bệnh trên tôm nuôi xảy ra ngày càng nhiều... nên hiệu quả kinh tế trung bình còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của vùng.
GS-TS. Dương Nhựt Long, Khoa thủy sản (Trường Đại học Cần Thơ) cho rằng, nuôi tôm trên đất lúa muốn hướng tới nền sản xuất hàng hóa, cần thay đổi tư duy và đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, gắn sản phẩm lúa xuất khẩu thì tôm cũng xuất khẩu, đặc biệt là tôm càng xanh. Để có chất lượng con tôm đạt chuẩn xuất khẩu, cần có hệ thống ao để nuôi tôm trước khi thả giống ra ruộng… hay hệ thống ao dự trữ nước phòng khi khô hạn, nắng nóng, độ mặn tăng cao.
Kỹ sư Hồ Quang Cua cho rằng, phát triển lúa - tôm là phát triển thích ứng với biến đổi khí hậu nhưng cần có quy hoạch cụ thể, nhất là trong khâu điều tiết nước, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, đồng thời cần hướng dẫn nông dân áp dụng các quy trình sản xuất an toàn, hạn chế sử dụng các phân, thuốc hóa học để đảm bảo sản xuất đúng quy trình lúa thơm - tôm sạch. Bên cạnh đó, các công ty, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp cũng cần quan tâm đến việc xây dựng vùng nguyên liệu, liên kết sản xuất để vừa đảm bảo sản lượng, vừa giúp xây dựng thương hiệu cho vùng sản xuất lúa - tôm sạch vùng Mêkông.
Ông Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT chia sẻ, lúa - tôm muốn phát triển xa hơn, mạnh hơn phải có thương hiệu. Lúa thơm - tôm sạch là một nhãn hiệu, hướng một nền nông nghiệp sinh thái bền vững và tích hợp đa giá trị - đó mới chính là thương hiệu. Phải xây dựng thương hiệu không chỉ từ chính cảm xúc và niềm tự hào với sản phẩm của mình, mà quan trọng là việc xây dựng thương hiệu phải bắt đầu từ những đúc kết, những câu chuyện được khắc họa một cách dễ hiểu nhất. Nông nghiệp sinh thái cần một hệ sinh thái của tất cả chúng ta, từ cơ quan quản lý, chính quyền, doanh nghiệp, nhà khoa học, người nông dân, truyền thông. Khi đã là hệ sinh thái thì không ai quan trọng hơn ai hết, bộ trưởng cũng như là nhà khoa học, người nông dân. Bởi thước đo cuối cùng của mô hình lúa - tôm là thu nhập của người nông dân, là người nông dân sống khỏe.