Khoa học - công nghệ, nguồn nhân lực sẽ là động lực để nền kinh tế đi nhanh
Đại hội Đảng lần thứ XIII là một mốc son mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, Đại hội đã xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp 5 năm tới và định hướng phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Đảng và tầm nhìn đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đại hội đã tổng kết nhiệm kỳ 5 năm khóa XII và nhìn lại 35 năm đổi mới.
Ảnh minh họa |
“Ngay thời điểm này, tôi muốn nhắc đến 3 điểm có vai trò xuyên suốt trong cả giai đoạn phát triển tới của đất nước. Một là nhận diện cơ hội, hai là xác định đổi mới sáng tạo là nền tảng phát triển, ba là con đường phát triển bền vững phải thể hiện rõ hơn”, TS. Bùi Quang Tuấn, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nói.
Theo TS. Bùi Quang Tuấn, chúng ta đang có nhiều cơ hội, có thể gọi là cơ hội vàng mà giai đoạn trước chưa có được. Cơ hội đó là cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đó là cơ cấu dân số vàng, là cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của Việt Nam ngày nay như Tổng Bí thư đã nói.
“Trong Nghị quyết Đại hội XIII vừa được thông qua, lần đầu tiên đặt yêu cầu khơi gợi tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm vươn lên xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát triển. Đây là điểm mới, thể hiện rõ hơn, nhiều hơn khát vọng phát triển đất nước”, TS. Bùi Quang Tuấn phát biểu.
Tinh thần là yếu tố rất quan trọng, đã tạo nên thành công của Nhật Bản và Hàn Quốc vào thế kỷ trước, hai nước cũng đi ra từ chiến tranh, đổ nát, nhưng nhờ khơi gợi được tự hào dân tộc, khát vọng tự cường của từng người dân mà các quốc gia này đã gia nhập nhóm nước phát triển
“Theo tôi, đây là tinh thần xuyên suốt cho không chỉ 5 năm, 10 năm mà cả chặng đường phát triển tới. Người Việt Nam ta ai cũng có khát vọng, nhưng phải khơi gợi để tất cả cùng chung khát vọng, cùng quyết tâm, không chỉ vượt qua khó khăn mà còn quyết tâm nắm bắt cơ hội, xây dựng quốc gia hùng cường, thịnh vượng”, Viện trưởng Tuấn nói.
Đổi mới sáng tạo là nền tảng phát triển
Viện trưởng Bùi Quang Tuấn cũng nhấn mạnh đến điểm thứ hai đó là “xác định đổi mới sáng tạo là nền tảng phát triển” và hai cụm từ đổi mới sáng tạo cũng đã được đề cập rất nhiều trong Nghị quyết. Có nghĩa là, mô hình phát triển của đất nước tới đây gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ gắn chặt với đổi mới, sáng tạo.
Và điểm thứ ba, con đường phát triển bền vững được thể hiện rõ hơn. Chúng ta đã đặt vấn đề này từ lâu, đã có các chiến lược về phát triển xanh, phát triển bền vững, đâu đó đã đề cập đến kinh tế xanh nhưng lần này, trong định hướng lớn đều nói đến phát triển bền vững, đến kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... Trong đó, con người được nhắc đến vừa là trung tâm, vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu và vừa là nguồn lực để thực hiện phát triển bền vững. Có thể nói, trụ cột phát triển xuyên suốt giai đoạn tới là phát triển bền vững vì con người.
TS. Bùi Quang Tuấn cho rằng trong giai đoạn phát triển tới, khoa học - công nghệ, nguồn nhân lực sẽ là động lực để nền kinh tế đi nhanh hơn. Nhưng để các động lực này phát huy hết công suất thì phải có thể chế theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập, đi theo các chuẩn mực quốc tế.
Đây là giai đoạn chúng ta thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, đưa mô hình tăng trưởng xanh vào thực hiện, nghĩa là sẽ phải thay đổi định hướng, động cơ, động lực và thể chế. Khi đó, tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng phải nhắm đến mục tiêu phát triển bền vững và nhanh hơn.
Sẽ cần những động lực mới, hiện đại hơn, phù hợp với xu thế về phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, giảm phát thải, nâng cao năng lực chống chịu với biến đổi khí hậu, thuận thiên hơn... Vì nếu không quan tâm đến môi trường, xã hội... sẽ đến lúc chúng ta phải lấy kết quả của tăng trưởng để sửa chữa các vấn đề của phát triển.
Động lực để tăng trưởng rất quan trọng và thể chế tạo động lực, phát huy động lực cũng quan trọng tương đương, TS. Bùi Quang Tuấn nhấn mạnh và theo ông thể chế là thách thức lớn nhất nhưng cũng là cơ hội lớn nhất.
Cái chốt chặn cần gỡ trong cải cách thể chế là bài toán lợi ích, nếu không giải được thì dù loay hoay sửa chỗ nọ, chỉnh chỗ kia cũng không thể giải quyết được. Ông Tuấn nói vậy vì ông thấy lâu nay, chúng ta đều thấy quyết tâm cải cách, đổi mới rất lớn, rõ nét ở các cấp lãnh đạo, nhưng mờ dần đi ở phía dưới. Và nhiều yếu tố về quyền lợi chưa được tính tới trong cải cách thể chế. Khi ngược về quyền lợi hoặc chưa tính hết thì đội ngũ thực thi sẽ không có động cơ làm việc.
Có rất nhiều việc cần làm, đó là cải cách tiền lương thế nào để công chức không nghĩ đến tham nhũng, không cần tham nhũng và sợ tham nhũng; hay như nâng cao năng lực của bộ máy thế nào để đảm bảo yêu cầu tinh gọn, nhưng có trình độ, có năng lực...
Đặc biệt, khi hoàn thiện thể chế phù hợp với giai đoạn chuyển đổi số, thể chế của chính phủ số, xã hội số thì sẽ phát sinh nhiều quy định khác với trước, cách tương tác giữa các cơ quan nhà nước với nhau, với xã hội sẽ thay đổi..., đòi hỏi sự thay đổi đồng bộ, không thể nơi này làm, nơi khác không làm...
Thách thức lớn với các nhà lãnh đạo lúc này là không chỉ tìm ra bằng được điểm chốt, chỗ căn cơ để tháo gỡ, từ đó đánh thông các ách tắc khác. Cùng với đó, cần chấp nhận thử nghiệm, chấp nhận đầu tư nguồn lực, nhân lực để thực hiện.
Theo TS. Bùi Quang Tuấn, cải cách thể chế là ưu tiên số 1 của nhiệm kỳ mới này vì thể chế như "hòn gạch đặt trên mảng cỏ", phải nhấc nó lên thì mới có không gian cho cỏ mọc.
Cũng phải nhấn mạnh, khi Nghị quyết nói về yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì hàm ý cả đổi mới, đột phá, đòi hỏi chấp nhận những cái ta chưa quen, chưa có tiền lệ. Đã đến lúc cần nghiên cứu, thử nghiệm, đầu tư nguồn lực để làm, chứ không thể vì mới mà ngần ngại.
“Tôi mong các nhà lãnh đạo dựa vào sức dân, biết huy động sức dân. Khơi gợi được ý chí, sức mạnh của dân nhiều bao nhiêu thì việc thực hiện các mục tiêu lớn của đất nước sẽ thuận lợi bấy nhiêu”, Viện trưởng Bùi Quang Tuấn nói.