Năng lượng sinh học: Tiềm năng để sản xuất điện lớn
Qua phân tích, đánh giá 3 ngành có tiềm năng nhất là: chăn nuôi và chế biến thịt lợn, giấy và bột giấy, chế biến tinh bột sắn có thể tận dụng năng lượng sinh học dùng cho phát điện và nhiệt, góp phần giảm chi phí năng lượng cũng như giảm lượng phát thải khí nhà kính cho các ngành tiềm năng.
Ảnh minh họa |
Quá trình nghiên cứu đánh giá trên nhiều phương diện: cấu trúc ngành; động lực thúc đẩy để thay đổi thực trạng sử dụng năng lượng sinh học, nhu cầu năng lượng (điện và nhiệt), kế hoạch kinh doanh nhằm nâng cấp và/hoặc đầu tư mới vào công nghệ đồng phát nhiệt và điện (CHP), và các rào cản chính đối với việc sử dụng năng lượng sinh học.
Đây là chuỗi nghiên cứu trong khuôn khổ của Dự án Bảo vệ Khí hậu thông qua Phát triển Thị trường Năng lượng Sinh học Bền vững ở Việt Nam (BEM) do GIZ phối hợp với Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo thực hiện. Dự án do Bộ Môi trường, Bảo tồn Thiên nhiên và An toàn Hạt nhân CHLB Đức (BMU) tài trợ, nhằm giúp giảm thiểu phát thải khí nhà kính tại Việt Nam.
Cụ thể, ngành chăn nuôi và chế biến thịt lợn đang trải qua những thay đổi lớn, đang chuyển từ những kênh sản xuất thiếu tính liên kết sang các kênh mới do một số công ty lớn quản lý. với tổng đầu lợn năm 2020 đạt 27,4 triệu con. bình quân mỗi con lợn cho 2 kg chất thải/ngày –tiềm năng năng lượng từ chất thải của các trang trại chăn nuôi lợn rất lớn. Phần lớn các trang trại lợn đều có hệ thống xử lý chất thải giúp thu hồi khí sinh học, tuy nhiên mức độ sử dụng khí sinh học vẫn còn thấp. Nếu ứng dụng công nghệ phát điện từ khí sinh học, các trang trại có thể có được lợi nhuận tài chính đáng kể. Số liệu từ một trang trại chăn nuôi tại tỉnh Quảng Trị cho thấy nếu sử dụng máy phát điện biogas, tỉ lệ lợi nhuận ròng trên tổng chi phí đầu tư cao và thời gian hoàn vốn ngắn.
Ngành giấy và bột giấy thu hút một lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn và đang chuyển dần sang những nhà máy quy mô lớn. Ngành giấy mỗi năm đóng góp 1,6 tỷ USD vào GDP quốc gia nhưng cũng là ngành tiêu tốn nhiều năng lượng. Ước tính, chi phí năng lượng chiếm 20 - 40% tổng chi phí sản xuất (phụ thuộc vào loại giấy). Trong khi các nguồn phế liệu, giấy rác, vỏ cây, dịch đen từ quá trình sản xuất bột giấy đang bị bỏ phí.
Nghiên cứu chỉ ra rằng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể ứng dụng sinh khối cho lò hơi để sản xuất ra hơi nước còn các doanh nghiệp lớn với nhu cầu hơi nước trên 50 tấn hơi/giờ có thể sử dụng hệ thống đồng phát điện và nhiệt thông qua lò hơi và tua bin hơi nước. Số liệu từ Tổng công ty Giấy Việt Nam cho thấy sử dụng công nghệ đồng phát nhiệt điện sẽ giúp giảm chi phí điện nhiều hơn so với phương án chỉ thay thế lò đốt than để phát nhiệt.
Với ngành chế biến tinh bột sắn, hầu hết các công ty đều có hệ thống hầm biogas để thu hồi khí sinh học từ nước thải, sau đó khí sinh học được đốt để sấy khô sắn và bã sắn. Cơ hội phát triển năng lượng sinh học bằng cách sử dụng công nghệ đồng phát nhiệt điện dành cho các nhà máy lớn hoặc ở các nhà máy khí sinh học sử dụng công nghệ tân tiến hơn. Kết quả tính toán cho một nhà máy với quy mô lớn ở tỉnh Tây Ninh cho thấy việc chuyển đổi khí sinh học thành điện năng sẽ đem lại lợi nhuận hấp dẫn cho nhà máy.
Ông Nathan Moore, Giám đốc dự án BEM, nhấn mạnh: “Việt Nam có nguồn sinh khối dồi dào để sản xuất năng lượng, đặc biệt là điện. Trong Quy hoạch Phát triển điện quốc gia 7 sửa đổi, mục tiêu phát triển điện sinh khối trong tổng sản lượng điện là 2,1% vào năm 2030. Đây là một nghiên cứu quan trọng, làm tiền đề cho việc tìm ra những ngành triển vọng, để thúc đẩy phát triển đầu tư vào ngành năng lượng sinh học tại Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu sẽ hỗ trợ các hoạt động tiếp theo của dự án, ví dụ như việc nghiên cứu tiền khả thi và hợp tác công nghệ”.