Người thủ quỹ mẫu mực
Về nơi nguồn cội | |
Về người chiến sĩ ngân tín | |
Ba câu chuyện về tiền - vàng trong lịch sử |
Khoảng cuối năm 1951, đầu 1952, theo yêu cầu của đồng chí Đỗ Mười, Bí thư Khu ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu 3 (UBKCHC khu), bộ phận Ngân hàng Liên khu 3 chúng tôi cần phải giữ một số tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của UBKCHC khu, giữ vàng bạc, tiền Đông Dương, chiến lợi phẩm thu được do các đơn vị bộ đội nộp vào.
Ngày đó, “biên chế” bộ phận ngân hàng vẻn vẹn chỉ có hai người, tôi và đồng chí Vũ Kim Ngân (1) đều là cán bộ chính trị, nghiệp vụ. Vì vậy, chẳng ai quen làm thủ quỹ giữ tiền, giữ vàng nhất là trong vùng địch hậu, mỗi khi địch quây càn phải di chuyển luôn, lại di chuyển bất thường, bất kể ngày đêm…
Do vậy, nhiệm vụ tìm được một thủ quỹ trở nên cấp thiết, nhưng cũng không dễ dàng khi ngày đó, chẳng có kho mà cũng không có két. Phương tiện bảo quản tiền chỉ là cái túi vải, người và cái hầm bí mật để cất giấu. Vì vậy cũng chẳng có quy tắc kho tiền hai khóa với hai chìa do hai người cầm!. Cũng chẳng có lắm chứng từ sổ sách để ghi chép, đối chiếu, kiểm soát cho rõ ràng, minh bạch. Tất cả chỉ trông vào “lòng người”.
Ông Vũ Thiên Hựu ôn lại quá trình công tác với con cháu |
Cũng may có đồng chí Chất (bí danh Nguyễn Cánh Sinh), Chủ tịch UBKCHC tỉnh Hưng Yên mới được điều lên làm Phó Chủ tịch UBKCHC khu trực tiếp giới thiệu và điều động đồng chí Lê Văn Chu quê ở Ân Thi, Hưng Yên vốn là bảo vệ của ông vừa gan dạ, vừa đạo đức, thật thà.
Một ngày sau đó. Ăn cơm trưa xong, tôi đang ngồi trên cái phản gỗ cũ để xem công văn thì nghe có người hỏi ở trước sân, rồi bức mành bằng tre tự đan ở gian giữa cửa trước nhà hé mở, một người nông dân sạm đen mặc bộ quần áo nâu đã cũ bước vào, nhìn thẳng tôi và nói vội: “Tôi cần gặp đồng chí Vũ Thiên Hựu!”...
Tôi nhìn lên và nói: “Tôi là Vũ Thiên Hựu đây!”. Với dáng điệu tự nhiên vui vẻ rồi dõng dạc nói: “Báo cáo tôi là Lê Văn Chu ở Hưng Yên lên nhận công tác!”, sau đó cười hề hề: “Tôi cứ nghĩ gặp đồng chí Vũ Thiên Hựu phải là người to lớn, chứ đồng chí bé nhỏ thế này…!”.
Cái sự chất phác ấy làm tôi thấy gần gũi ngay rồi đứng lên kéo đồng chí Chu vào ngồi bên phản và nói đùa: “Thế anh bộ đội Cụ Hồ có to lớn hơn thằng lính Tây Lê Dương đâu mà vẫn đánh thắng!”. Thế là chúng tôi vui vẻ làm quen với nhau và càng hiểu nhau hơn sau những sẻ chia về gia cảnh…
Nghe phổ biến công tác, nhiệm vụ, tôi thấy đồng chí Chu rất chăm chú, suy nghĩ một thoáng rồi nói ngay: “Tôi là Đảng viên, việc gì cũng làm được, cầm súng đánh Tây được, thổi cơm được, đào hầm được, nhưng thú thực văn hóa chỉ có lớp 3, không hiểu cái việc thủ quỹ có khó không, nhưng tôi cứ làm, khó đâu không hiểu thì các đồng chí cứ bảo!”.
Tôi vui vẻ trấn an và động viên đồng chí Chu: “Đảng viên thế là tốt rồi! Dũng cảm, chịu khó, việc gì cũng nhận, không biết thì học hỏi và cái tài dân vận của đồng chí tôi cũng đã nghe đồng chí Chất kể rồi! Việc thủ quỹ khó thì khó thật, nhưng được cái đức tính thật thà, cẩn thận là cơ bản rồi”.
Đúng như mong đợi sau khi được giao nhiệm vụ và hướng dẫn tận tình, đồng chí Chu đã hoàn thành nhiệm vụ một cách chu đáo. Đầu tiên là đồng chí đã chuẩn bị cho mình một túi vải để đựng tiền mặt, bên trong là cái túi ni lông để đề phòng mưa ướt và khi cần để vượt sông. Ngoài ra còn có một cái hòm sắt tây và đi đến đâu cũng đào ngay một cái hầm để cất giấu, đồng chí bảo “người có thể bị bắt nhưng không để mất tiền”. Khi di chuyển thì “tiền là vật bất ly thân”, còn khẩu súng AK cũng bất ly người.
“Cái này mà gặp thằng Tây thì cứ cho xơi một băng chứ chẳng chịu mất tiền đâu”, đồng chí Chu vừa cười vừa nói một tay giơ khẩu súng lên đầy tự hào.
Với đức tính cẩn thận và thật thà nên mấy năm trời làm thủ quỹ đồng chí Chu chưa một lần nhầm lẫn, suy suyển tiền bạc. Kể cả tiền Đông Dương tuy số lượng không nhiều nhưng không quen, khó nhận biết nên nhiều khi phải nhờ người xem hộ, cũng không sao! Đến vàng thì cực khó, vì nhà nghèo đã trông thấy vàng bao giờ!. Nhưng “cái khó ló cái khôn”. Có lúc phải nhận hàng mấy chục lạng vàng, do bắt được của địch. Nhận vào rồi mới chuyển ra Liên khu 3. Vàng thật giả thế nào, tuổi vàng bao nhiêu, hỏi chúng tôi cũng đều mù tịt!...
Nhưng cũng từ cái tính ngay thẳng đồng chí Chu đã đề xuất cách giải quyết dễ dàng: “Thôi thì các đồng chí cứ lập biên bản, ký tên, đóng dấu, niêm phong vào đấy và tôi chỉ việc cất giữ còn nguyên niêm phong là được. Bao giờ đến chỗ giao người ta có chuyên môn, người ta kiểm, thế được không?!”. Cũng chẳng còn cách nào khác và kết quả là vàng, bạc không hề suy suyển một phân.
Lại nói về việc bảo vệ tiền. Với các cuộc càn lớn, ta có tình báo nắm được tình hình nên đều biết trước và được lệnh rút ra ngoài. Tôi còn nhớ lần đồng chí Stalin mất, chúng tôi làm lễ truy điệu và chiếu phim (phim câm) ở một cái đình gần bốt Nhà thờ Nhâm Lang, huyện Quỳnh Côi, Thái Bình để lợi dụng sự bất ngờ của địch.
Không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của người thủ quỹ trong vùng địch hậu, đồng chí Chu còn tự nguyện đảm nhiệm thêm bất cứ việc gì được giao hay “chẳng ai giao” nhưng thấy cần là cứ làm... |
Lệnh của Khu khi đó là mọi người đi dự phải đem theo tất cả tài liệu để đề phòng nếu phải di chuyển. Đang xem dở dang thì được tin địch sẽ rải quân theo sông Luộc và càn quét lớn ở khu căn cứ Tiên-Duyên-Hưng (bao gồm 3 huyện Tiên Hưng, Duyên Hà, Hưng Nhân) ở phía bắc Thái Bình. Không đầy 15 phút chúng tôi đã di chuyển về qua Hưng Nhân vượt sông Luộc giáp bốt La Tiến (Thái Bình) sang Phù Cừ (Hưng Yên) rồi đi tiếp lên Ân Thi đến gần sáng mới được nghỉ.
Nhưng có một lần chủ quan quân địa phương của địch vào sát làng mới biết, anh em không kịp chạy ra ngoài, đành phải “tụt hầm”. Nguyên tắc đào hầm thời đó là mỗi người có hầm riêng tự đào và bí mật không để cho người khác biết, đề phòng khi có người bật hầm bị địch bắt chỉ hầm.
Riêng hầm của đồng chí Chu thì thật đặc biệt. Được mệnh danh là “vua đào hầm”; vừa khỏe mạnh, chịu khó, lại giữ trọng trách bảo vệ tiền, vàng bạc, bảo vệ súng nên đồng chí đã chọn địa điểm đặt hầm dưới bụi tre to, để nếu ô bi (bom bi) của địch có bắn trúng thì cũng nổ tung không rơi đến hầm. Để đề phòng địch cào dò tìm được nắp hầm, đồng chí phải đào từ đáy ao xuyên dưới lòng đất vào đến bụi tre mới moi lên làm chỗ để tiền và người trú. Các lỗ thông hơi xuyên ra dưới bụi tre cũng kín đáo để chó béc-giê không thể đánh hơi…
Hồi hộp núp sâu dưới hầm bí mật hơn một giờ đồng hồ. Nghe thấy bên trên dáo dác có tiếng người gọi nhau biết là địch đã rút, chúng tôi cùng chui ra khỏi hầm và chạy đi tìm nhau. Ai cũng vội hỏi đồng chí Chu đâu, vì vừa là người anh lớn tuổi, vừa là người ai cũng mến, lại là người có trọng trách giữ tiền, giữ súng, thì thấy đồng chí Chu ở dưới ao lóp ngóp leo lên, người ướt sũng, tay giơ cao khẩu súng, vai đeo túi tiền, cười khềnh khệch: “Còn nguyên cả! Tưởng hôm nay phải cho chúng nó một băng”.
Không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của người thủ quỹ trong vùng địch hậu, đồng chí Chu còn tự nguyện đảm nhiệm thêm bất cứ việc gì được giao hay “chẳng ai giao” nhưng thấy cần là cứ làm. Chẳng thế mà bộ phận Ngân hàng vốn đã ít người lại không có ai được phân công phụ trách hành chính hay tiếp tân, nhưng hễ có đồng chí ở Ngân hàng tỉnh lên là đồng chí Chu đã vội vàng đến gặp gỡ. Nếu chưa ăn là đi nấu cơm ngay, dù chỉ có rau luộc chấm tương nhưng ai cũng hả hê vui vẻ.
Tôi còn nhớ có lần đồng chí Bát ở Thái Bình lên xin ý kiến. Không chờ giải quyết công việc xong, tôi hỏi đồng chí Bát có chỗ ăn ở chưa, thì đồng chí đã tươi cười trả lời ngay là đã gặp “Lê Văn Chu” và cố ý nhấn mạnh “Chu” là chu đáo, “gặp đồng chí Chu là việc ăn ở chu đáo rồi”.
Trong xóm có người lợp nhà, đồng chí Chu cũng thu xếp tranh thủ đến giúp, làm bó rạ, chẻ lạt. Có lúc trèo cả lên nóc nhà để lợp hay đánh nóc, là những việc phải là người biết mới làm được.
Rất tiếc sau ngày hòa bình, cả đến khi hợp nhất tỉnh tôi vẫn chưa có dịp gặp lại đồng chí Chu, một người thủ quỹ mẫu mực, để tâm sự hàn huyên về những ngày công tác ở Ngân hàng Liên khu 3, thì đồng chí ấy đã vĩnh biệt cõi trần!
Đồng chí Vũ Kim Ngân là người đã cùng công tác với ông Hựu từ những ngày kháng chiến chống Pháp sau làm Trưởng Chi nhánh Ngân hàng tỉnh Hải Dương, Trưởng Chi nhánh Ngân hàng tỉnh Hưng Yên. Đến năm 1968 hợp nhất 2 tỉnh, ông Ngân làm Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng tỉnh Hải Hưng. |