Nỗi niềm tranh dân gian
Về các dòng tranh dân gian, nổi tiếng nhất vẫn là tranh Hàng Trống, tranh Kim Hoàng (Hà Nội), Đông Hồ (Bắc Ninh), tranh làng Sình (Thừa Thiên-Huế). Tiếp đó là các dòng tranh Thập vật, tranh Đồ thế Nam Bộ, tranh kính Nam Bộ, tranh thờ miền núi, tranh gói vải, tranh thờ đồng bằng, tranh vải… Theo dòng chảy thời gian, nhiều dòng tranh bị mai một, còn rất ít người biết đến, thậm chí chưa bao giờ nghe tên.
Cũng như nhiều môn nghệ thuật truyền thống, tranh dân gian hiện không còn được sử dụng nhiều, hoặc không còn hữu dụng trong đời sống hiện đại, dù ở đó chất chứa chiều sâu văn hóa, tinh thần độc đáo. Trong cuộc sống hiện đại, nhiều dòng tranh đã bị đẩy vào quên lãng. Chỉ một số ít may mắn có được những nghệ nhân tâm huyết giữ gìn.
Nghệ nhân Lê Đình Nghiên có công lớn trong việc gìn giữ dòng tranh Hàng Trống |
Nói đến tranh Hàng Trống và sự bền bỉ của nó, người ta nhớ ngay đến nghệ nhân Lê Đình Nghiên. Ông nổi tiếng trong giới nghiên cứu văn hóa, báo giới, khách du lịch trong nước và thế giới. Tại căn nhà nhỏ trên phố Cửa Đông (Hà Nội), nghệ nhân Lê Đình Nghiên vẫn hàng ngày lặng lẽ vẽ những bức tranh đặc biệt của mình. Ông bắt đầu vẽ từ năm 11 tuổi khi được cha là nghệ nhân Lê Đình Liệu. Chính ông Nghiên có lúc đã lựa chọn một công việc khác, song vì người cha lo lắng nghề mai một nên đã định hướng cho con theo. Còn nhớ cái thời cực thịnh của tranh Hàng Trống, quanh năm rực rỡ màu tranh. Khách khắp nơi đổ về mua tranh để thờ và chơi tết. Cứ đến cuối năm, các chiếu tranh Hàng Trống bày bán la liệt ở hè phố tạo ra một nét riêng cho cái tết của Hà Nội. Rồi thú chơi rơi vào thoái trào, bày chẳng còn nhiều người mua. Nhiều nghệ nhân bỏ nghề.
Làng tranh Đông Hồ cũng từng nổi tiếng, có thời kỳ cực thịnh và đã rơi vào thoái trào mấy chục năm qua. Cũng khoảng 20 năm qua, nói đến việc gìn giữ nghề tranh Đông Hồ, người ta nhớ ngay đến các nghệ nhân Nguyễn Ðăng Chế và Nguyễn Hữu Sam (nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam đã mất cách đây vài năm). Ngày nay, đến với chợ tranh Ðông Hồ, không còn thấy được cảnh người người, nhà nhà tấp nập sản xuất, mua bán tranh như trước. Thời hưng thịnh của làng tranh chỉ còn vang bóng trong ký ức. Lo cho dòng tranh truyền thống, năm 2014, UBND tỉnh Bắc Ninh phê duyệt Ðề án “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa tranh dân gian Ðông Hồ, huyện Thuận Thành, giai đoạn 2014 - 2020 và định hướng đến 2030”. Các cơ quan chức năng cũng đã làm hồ sơ trình UNESCO đưa nghề làm tranh Ðông Hồ vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp tiếp, điều đó tục mang đến cơ hội lớn để hồi sinh làng tranh Ðông Hồ. Cách đây không lâu, Hội thảo khoa học quốc tế “Bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật tranh dân gian Ðông Hồ trong đời sống đương đại” đã được Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh tổ chức nhằm tìm kiếm những giải pháp giữ gìn, lan tỏa giá trị dòng tranh quý.
Ở đất Huế, tranh làng Sình (xã Phú Mậu, huyện Phú Vang) cũng không khởi sắc hơn bởi cũng còn ít nghệ nhân theo nghề với niềm mong ước gìn giữ nghề truyền thống. Người có công lao nhiều nhất trong công cuộc gìn giữ nét văn hóa truyền thống này không ai khác đó là nghệ nhân Kỳ Hữu Phước. Ông Phước coi những bức tranh chính là những đứa con tinh thần, là cả cuộc sống và hy vọng của ông, và đã sáng tạo nhiều đề tài để người dân treo trang trí, chơi tết... Bên cạnh đó một số bức tranh còn trang trí ở lễ hội Festival - nhằm tôn vinh các làng nghề nổi tiếng.
Thật đáng lo vì nhiều giá trị truyền thống không còn được coi trọng trong cuộc sống hiện đại, khiến những làng nghề truyền thống bị mai một. Nhưng vẫn còn đó niềm tin, niềm vui và hy vọng vào những nghệ nhân tâm huyết, quyết tâm giữ nghề tổ bằng mọi giá, đồng thời có những hoạt động nhằm kết nối, để tranh dân gian “neo” lại đời sống này.