Phát triển nhà ở xã hội sẽ tăng tính bền vững cho thị trường bất động sản
Đã hoàn thành gần 8 triệu mét vuông nhà ở xã hội | |
Gói tín dụng 120.000 tỷ đồng “hâm nóng” thị trường bất động sản |
Nhu cầu nhà ở của người dân hiện còn rất lớn |
Theo khảo sát của Bộ Xây dựng, nhu cầu về nhà ở xã hội cho công nhân thu nhập thấp tại các khu công nghiệp là khoảng 2,4 triệu căn cho giai đoạn 2021-2030.
Trong khi đó, bà Trang Bùi, Tổng giám đốc Cushman & Wakefield Việt Nam cho hay: “Nếu tính hết cả nguồn cung hoàn thành hiện hữu và nguồn cung tương lai thì thị trường sẽ còn thiếu hơn 1 triệu căn, tương đương với 51% tổng nhu cầu".
Đa phần các dự án nhà ở xã hội được phát triển bởi các chủ đầu tư trong nước. Một số chủ đầu tư điển hình có thể kể đến như HUD Việt Nam, BIC Việt Nam và Him Lam tại khu vực phía Bắc. Khu vực miền Trung có Xuân Phú Hải, Saigon Invest Group và Vicoland. Phía Nam có Nam Long, Hoàng Quân, Sacomreal và nhiều chủ đầu tư khác.
Tính đến quý I/2023, Việt Nam đã hoàn thành 301 dự án nhà ở xã hội tại đô thị và dự án nhà ở công nhân tại các khu công nghiệp với tổng quy mô gần 156.000 căn. Khoảng 401 dự án chuẩn bị được xây dựng với tổng quy mô khoảng 454.000 căn. Tuy nhiên, nguồn cung đối với loại hình nhà ở này vẫn chưa được đáp ứng đầy đủ so với nhu cầu.
Năm 2023, thị trường Hà Nội dự kiến sẽ chào đón 6,117 căn nhà ở xã hội tại 11 dự án. Trong khi đó, TP.HCM cũng dự kiến xây dựng thêm 3,800 căn tại 6 dự án, theo số liệu từ đề án “Đầu tư xây dựng ít nhất một triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030”.
Để được mua nhà ở xã hội, người mua cần nằm trong diện ưu tiên, kèm thêm thỏa mãn một số điều kiện về thu nhập, diện hộ gia đình. Kể từ khi được luật hóa từ năm 2005, những quy định về người sở hữu cũng như nhà phát triển được cấp phép đã có nhiều thay đổi.
Một số chính sách ưu đãi nhà ở xã hội từ năm 2013 vẫn giữ nguyên cho đến nay là miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, giảm 50% thuế giá trị gia tăng và thu nhạp doanh nghiệp, được hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài dự án cùng ưu đãi lãi suất thấp.
Các điều luật về nhà ở xã hội cũng đã được thay đổi một số điểm quan trọng để phù hợp với nhu cầu người dân cũng như khuyến khích chủ đầu tư xây dựng loại tài sản này. Từ 2023, chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại có quy mô từ 10 ha (hoặc 2 ha) trở lên tại các đô thị loại 3 (hoặc loại 1) trở lên không còn phải dành 20% diện tích đất ở trong dự án để xây dựng nhà ở xã hội như trước. Các chủ đầu tư thương mại sẽ không còn chịu trách nhiệm về việc thực hiện chính sách nhà ở xã hội hoặc đóng góp để phát triển nhà ở xã hội.
Dù luật dành cho nhà phát triển đã có nhiều thay đổi, tuy nhiên phía người mua vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập. Chẳng hạn, trong quá trình đăng ký mua nhà, người mua phải chờ bốc thăm và nộp nhiều loại giấy tờ chứng minh đủ điều kiện mua nhà ở xã hội. Quy trình kéo dài và phức tạp này khiến việc tiếp cận nhà ở xã hội ngày càng khó khăn đối với những người dân có nhu cầu thực sự và cấp bách về nhà ở.
Kiểm tra lý lịch cũng là một điểm đáng quan tâm vì đã có trường hợp các chủ đầu tư bán các đơn vị nhà ở xã hội cho những người không thuộc danh sách đủ điều kiện.
Bà Trang chia sẻ, nhu cầu về nhà ở rất quan trọng đối với sự phát triển bền vững của thị trường bất động sản cũng như tăng trưởng kinh tế. Đối với các chủ đầu tư dự định tham gia vào lĩnh vực này trong thời gian tới, việc cân bằng giữa giá bán, chất lượng công trình và các yếu tố bền vững là vô cùng quan trọng. Các nhà phát triển cần tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng và nghiên cứu khả thi trước khi bắt đầu dự án.
"Nỗ lực của Chính phủ trong việc thúc đẩy nhà ở giá rẻ là rất đáng khen ngợi, mặc dù quỹ đất sẵn có, kết nối cơ sở hạ tầng, chính sách tốt hơn và cơ cấu tài chính là cần thiết để tạo lực đẩy cho lĩnh vực này và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nhà ở xã hội nhằm cung cấp thành công nhà ở cho tất cả mọi người trong thập kỷ tới”, bà Trang cho biết.
Việt Nam đạt mốc 100 triệu dân vào năm 2023, trở thành quốc gia đông dân thứ ba trong khu vực ASEAN, chỉ sau Indonesia và Philippines và xếp thứ 15 trên toàn thế giới. Trong khi đó, tỷ lệ đô thị hóa của cả nước tăng từ 20% năm 1993 lên hơn gấp đôi vào năm 2022 với tỷ lệ 41,7%. |