Chỉ số kinh tế:
Ngày 5/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.151 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.944/26.358 đồng/USD. Kinh tế tháng 10 tiếp tục khởi sắc, khi sản xuất công nghiệp tăng 10,8%, gần 18 nghìn doanh nghiệp mới ra đời, đầu tư công tăng 29,1%, FDI đạt 31,52 tỷ USD. Xuất nhập khẩu đạt 81,49 tỷ USD, xuất siêu 2,6 tỷ USD, CPI tăng nhẹ 0,2%, và khách quốc tế đạt 1,73 triệu lượt, cho thấy đà phục hồi vững của kinh tế Việt Nam.
dai-hoi-cong-doan

Rút ngắn thời gian thẩm định báo cáo liên quan dự án PPP

PL
PL  - 
Chính phủ ban hành Nghị định số 71/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 35/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Luật PPP).
aa

Rút ngắn thời gian thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi dự án PPP- Ảnh 1.

Nghị định số 71/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 18 Nghị định số 35/2021/NĐ-CP về thời gian thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án PPP theo hướng rút ngắn thời gian.

Cụ thể, thời gian thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án PPP được tính kể từ ngày có quyết định thành lập Hội đồng thẩm định hoặc kể từ ngày đơn vị được giao nhiệm vụ thẩm định nhận đủ hồ sơ hợp lệ hoặc kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm tra đối với trường hợp thuê tư vấn thẩm tra, cụ thể như sau:

a) Dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ: thời gian thẩm định rút ngắn từ không quá 45 ngày xuống còn không quá 30 ngày;

b) Dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan trung ương, cơ quan khác, Hội đồng nhân dân câp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: không quá 14 ngày (quy định cũ là không quá 30 ngày);

c) Đối với dự án thuộc trường hợp chỉ cần lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng: không quá 10 ngày.

Trường hợp dự án có yêu cầu đẩy nhanh tiến độ, Chủ tịch Hội đồng thẩm định quyết định thời gian thẩm định phù hợp.

Bên cạnh đó, Nghị định số 71/2025/NĐ-CP cũng rút ngắn thời gian thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi dự án PPP đã được quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị định số 35/2021/NĐ-CP.

Theo quy định mới, thời gian thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi dự án PPP được tính kể từ ngày có quyết định thành lập Hội đồng thẩm định hoặc kể từ ngày đơn vị được giao nhiệm vụ thẩm định nhận đủ hồ sơ hợp lệ hoặc kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm tra đối với trường hợp thuê tư vấn thẩm tra, cụ thể như sau:

a) Dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ: thời gian thẩm định rút ngắn từ không quá 90 ngày xuống còn không quá 30 ngày;

b) Dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan trung ương, cơ quan khác, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: không quá 14 ngày (quy định cũ là không quá 60 ngày), đối với dự án quy định tại các khoản 2a, 2b và 2c Điều 11 của Luật PPP: không quá 10 ngày.

Trường hợp dự án có yêu cầu đẩy nhanh tiến độ, Chủ tịch Hội đồng thẩm định quyết định thời gian thẩm định phù hợp.

Quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP trên phạm vi 2 tỉnh trở lên

Về trình tự quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Điều 12 Luật PPP (được sửa đổi tại khoản 5 Điều 3 Luật số 57/2024/QH15) bổ sung quy định về thẩm quyền quyết định chủ trương của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trong đó có quy định phân cấp thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP thuộc phạm vi quản lý của hai đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên từ Thủ tướng Chính phủ cho các địa phương.

Do vậy, Nghị định số 71/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 21 Nghị định số 35/2021/NĐ-CP về việc quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP trên phạm vi từ hai đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên.

Cụ thể, đối với dự án PPP thực hiện tại địa bàn hai đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 hoặc điểm b khoản 4a Điều 12 của Luật PPP, Thủ tướng Chính phủ phân cấp cho Bộ trưởng bộ quản lý ngành có ý kiến thống nhất về việc giao một cơ quan làm cơ quan có thẩm quyền. Việc quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP được thực hiện như sau:

a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh của các địa phương nơi thực hiện dự án trao đổi, thống nhất về việc đề xuất thực hiện dự án, bao gồm các nội dung: tên dự án, quy mô, địa điểm, loại hợp đồng dự án PPP, sơ bộ tổng mức đầu tư, vốn nhà nước trong dự án PPP và phân chia trách nhiệm cân đối, bố trí ngân sách của từng địa phương;

b) Đối với dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại điểm b khoản 4 Điều 12 của Luật PPP, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh của các địa phương nơi thực hiện dự án báo cáo Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét, đồng thuận đối với nội dung quy định tại điểm a khoản này.

Căn cứ văn bản đồng thuận của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh của các địa phương nơi thực hiện dự án thống nhất với bộ quản lý ngành về việc giao một địa phương làm cơ quan có thẩm quyền;

c) Đối với dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tại điểm b khoản 4a Điều 12 của Luật PPP, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh của các địa phương nơi thực hiện dự án thống nhất với bộ quản lý ngành về việc giao một địa phương làm cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp dự án có yêu cầu sử dụng vốn nhà nước tham gia dự án PPP thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh của các địa phương báo cáo Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trước khi thống nhất với bộ quản lý ngành về việc giao một địa phương làm cơ quan có thẩm quyền;

d) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được bộ quản lý ngành thống nhất là cơ quan có thẩm quyền của dự án theo quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản này tổ chức chuẩn bị dự án, trình cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư theo quy định tại điểm b khoản 4 hoặc điểm b khoản 4a Điều 12 của Luật PPP;

đ) Trường hợp kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư; hỗ trợ xây dựng công trình tạm được bố trí từ nguồn ngân sách địa phương của từng địa phương, Ủy ban nhân dân các tỉnh thống nhất, báo cáo Hội đồng nhân dân cấp tỉnh việc phân chia thành các dự án thành phần bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư; hỗ trợ xây dựng công trình tạm đồng thời với nội dung quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản này để từng địa phương thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công."

UBND cấp tỉnh phê duyệt quyết định chủ trương đầu tư không quá 10 ngày

Nghị định số 71/2025/NĐ-CP cũng bổ sung điểm c khoản 6 Điều 21 Nghị định số 35/2021/NĐ-CP quy định thời gian phê duyệt quyết định chủ trương đầu tư dự án kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Theo đó, dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: không quá 10 ngày; đối với dự án thuộc trường hợp chỉ cần lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng: không quá 05 ngày làm việc.

Tháo gỡ khó khăn cho nhà đầu tư trong việc huy động vốn và thu xếp tài chính

Nhằm tháo gỡ khó khăn cho nhà đầu tư trong việc huy động vốn và thu xếp tài chính của toàn bộ dự án PPP, Nghị định số 71/2025/NĐ-CP sửa đổi khoản 4 Điều 76 Nghị định số 35/2021/NĐ-CP theo hướng bỏ quy định cơ quan ký kết hợp đồng chỉ thanh toán tối đa 50% giá trị khối lượng đối với tiểu dự án sử dụng vốn đầu tư công trong dự án PPP (khi doanh nghiệp dự án đã hoàn thành công trình thuộc tiểu dự án); thay vào đó, bổ sung quy định thanh toán đối với tiểu dự án sử dụng vốn đầu tư công như sau:

Trường hợp dự án PPP có tiểu dự án sử dụng vốn đầu tư công theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 70 của Luật PPP, việc thanh toán đối với công trình, hạng mục công trình hoàn thành của tiểu dự án thực hiện theo tiến độ, giá trị, khối lượng hoàn thành được thống nhất giữa cơ quan ký kết hợp đồng và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án tại hợp đồng dự án.

PL
baochinhphu.vn

Tin liên quan

Tin khác

Nông nghiệp tăng tốc xuất khẩu

Nông nghiệp tăng tốc xuất khẩu

Biến đổi khí hậu tác động mạnh mẽ lên nông nghiệp Việt Nam, từ miền núi đến đồng bằng. Trong bối cảnh khó khăn chồng chất, ngành nông nghiệp và môi trường vẫn ghi nhận tín hiệu phục hồi, đặc biệt ở xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản.
Đột phá hạ tầng và chuyển đổi số cho logistics Việt Nam

Đột phá hạ tầng và chuyển đổi số cho logistics Việt Nam

Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2229/QĐ-TTg ngày 09/10/2025. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có một chiến lược đồng bộ, toàn diện và dài hạn về logistics, đánh dấu bước ngoặt lớn của ngành trong giai đoạn mới.
TP. Hồ Chí Minh thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi cung ứng toàn cầu

TP. Hồ Chí Minh thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi cung ứng toàn cầu

Ngày 4/12/2025, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) phối hợp Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI), Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ TP.HCM (HASI) và Viện Quản trị Chính sách và Chiến lược phát triển (IPADS) tổ chức Diễn đàn “Thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu” tại Trung tâm Triển lãm Quốc tế WTC Expo, phường Bình Dương, TP.HCM.
Tuần lễ kết nối giao thương giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại hệ thống phân phối hiện đại

Tuần lễ kết nối giao thương giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại hệ thống phân phối hiện đại

Ngày 4/12/2025, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) phối hợp Công ty TNHH AEON Việt Nam tổ chức Lễ khai mạc “Tuần lễ kết nối giao thương và không gian giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại hệ thống phân phối hiện đại AEON Việt Nam năm 2025”. Sự kiện diễn ra tại AEON MALL Bình Tân, nằm trong chuỗi hoạt động xúc tiến thương mại thường niên hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng đầu ra và tiếp cận hệ thống phân phối hiện đại.
VIFTA – Động lực mới cho thương mại và đầu tư Việt Nam – Israel

VIFTA – Động lực mới cho thương mại và đầu tư Việt Nam – Israel

Sau một năm chính thức có hiệu lực, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Israel (VIFTA) đang dần định hình vai trò là một cấu phần quan trọng trong mạng lưới hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Với mức độ cam kết sâu, thị trường tiềm năng và cấu trúc kinh tế bổ trợ, VIFTA không chỉ mở ra cơ hội xuất khẩu mà còn đặt ra yêu cầu mới về cải cách thể chế, nâng cao năng lực doanh nghiệp và hoàn thiện hệ sinh thái hỗ trợ hội nhập.
VPBank là ngân hàng duy nhất nhận hai giải thưởng tại VLCA 2025

VPBank là ngân hàng duy nhất nhận hai giải thưởng tại VLCA 2025

VPBank giành hai giải thưởng “Top 10 Báo cáo Thường niên tốt nhất – Nhóm ngành Tài chính” và “Giải Ba Báo cáo Phát triển Bền vững – Nhóm ngành Tài chính” tại VLCA 2025. Đây là minh chứng cho nỗ lực không ngừng của VPBank trong việc nâng tầm quản trị doanh nghiệp, minh bạch thông tin và thực hành ESG, đồng thời khẳng định uy tín quốc tế, vị thế tiên phong và cam kết tạo giá trị bền vững cho cổ đông, khách hàng và cộng đồng.
Khát vọng tạo giá trị bền vững từ năng lượng tái tạo của Bầu Hiển

Khát vọng tạo giá trị bền vững từ năng lượng tái tạo của Bầu Hiển

Chuẩn bị tâm thế, tiềm lực và chiến lược từ sớm, từ xa, nên khi bước vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, T&T Group nhanh chóng nổi lên như một “ông lớn” với loạt dự án tầm quốc gia, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, góp sức cùng Chính phủ thực hiện thành công cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Với riêng Nhà Sáng lập, Chủ tịch Điều hành Đỗ Quang Hiển, làm năng lượng sạch không phải xin dự án chỉ để kiếm lợi nhuận. Lớn hơn, đó còn là khát vọng làm ra những giá trị bền vững cho xã hội, công đồng, đất nước.
Sở hữu trí tuệ - công cụ để cạnh tranh và tăng trưởng mới

Sở hữu trí tuệ - công cụ để cạnh tranh và tăng trưởng mới

Việt Nam đang hướng tới trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 dựa vào năng lực đổi mới sáng tạo và sức mạnh của nền kinh tế số. Trong bối cảnh đó, tài sản vô hình, từ quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu, bí quyết công nghệ đến dữ liệu và phần mềm chính là “mỏ vàng” của thời đại mới.
Logistics xanh - lời giải cho sức ép chi phí và tiêu chuẩn bền vững

Logistics xanh - lời giải cho sức ép chi phí và tiêu chuẩn bền vững

Việt Nam đang đối mặt với bài toán kép: vừa phải kéo giảm chi phí logistics vốn đang ở mức cao hàng đầu khu vực, vừa phải đáp ứng các tiêu chuẩn xanh hóa ngày càng ngặt nghèo từ các thị trường xuất khẩu chủ lực. Trong bối cảnh đó, phát triển logistics xanh không chỉ là xu thế mang tính tất yếu, mà đang trở thành lời giải khả thi nhất để hóa giải cùng lúc hai áp lực lớn.
[Infographic] Từ 1/1/2026, lương tối thiểu tăng bình quân 7,2%

[Infographic] Từ 1/1/2026, lương tối thiểu tăng bình quân 7,2%

Theo quy định tại Nghị định số 293/2025/NĐ-CP, từ 1/1/2026 mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động tăng từ 250.000 đồng - 350.000 đồng/tháng so với quy định tại Nghị định 74/2024/NĐ-CP.