Sức ép và bàn đạp
Để không bị lỡ chuyến tàu WTO | |
Phê chuẩn Nghị định thư sửa đổi WTO: Việt Nam hưởng lợi nhiều hơn | |
Thấy gì sau khi gia nhập WTO |
10 năm sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nền kinh tế Việt Nam đã tự nhận diện được chính mình một cách rõ nét hơn, cả dưới góc độ các lợi thế cạnh tranh cũng như điểm nghẽn của quá trình phát triển. Qua chặng đường dài 1 thập kỷ và đứng trước thời cơ hội nhập sâu rộng hơn, đây là thời điểm cần đánh giá lại về những mặt tích cực và hạn chế của nền kinh tế để hoạch định những bước đi tiếp theo.
Kiểm chứng năng lực cạnh tranh qua 10 năm WTO
Dưới góc độ lợi thế cạnh tranh, con số tăng trưởng xuất khẩu sau 10 năm gia nhập WTO có lẽ chính là minh chứng rõ nét hơn cả. Đây là điều mà TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội dẫn ra đầu tiên khi đánh giá về sự bật lên của cả nền kinh tế. Theo ông Kiên, xét về tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá từ khi Việt Nam là thành viên của WTO đến nay, có thể đánh giá là tương đối thành công.
Đến năm 2015, cả kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam đã chiếm tỷ trọng khoảng 0,7-0,8% so với kim ngạch tương ứng của thương mại toàn cầu. Đặc biệt từ khi gia nhập WTO, mức tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam đều đạt khoảng 12-14%/năm trong cả một thời gian dài. Những số liệu mới nhất đã cho thấy rõ hơn điều này. Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2016 ước tính đạt 175,9 tỷ USD, tăng gấp 3,5 lần so với con số tương ứng 50 tỷ USD trong năm 2006.
Hội nhập giúp Việt Nam tận dụng tốt lợi thế so sánh |
Xét về cơ cấu hàng xuất khẩu, tỷ trọng hàng thông qua chế biến ở giai đoạn này ngày càng tăng. Nếu vào thời điểm 2005, tỷ trọng hàng thô hay sơ chế chiếm khoảng 51% thì hiện nay con số này giảm xuống còn 23%. Những mặt hàng đã qua chế biến từ sơ chế tới chế biến sâu đạt tới 77%. Đó là hướng thay đổi cơ cấu tích cực, cho thấy nền sản xuất trong nước chuyển biến vững chắc hơn.
Còn với TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), điều mà ông tâm đắc nhất là WTO đã làm thay đổi diện mạo khung khổ pháp lý, thể chế chính sách về kinh tế, thương mại, đầu tư, cũng như phương thức quản lý kinh tế của Việt Nam. Ông Lộc cho biết, trong 2 năm liền trước và liền sau thời điểm gia nhập WTO là 2006 - 2007, Việt Nam đã sửa trên 60 văn bản luật để thực thi cam kết. Cùng với đó, hàng trăm nghị định, thông tư hướng dẫn cũng đã được sửa đổi. Trước đó, vào năm 2005, lần đầu tiên Việt Nam có Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư áp dụng chung cho DN thuộc mọi thành phần kinh tế.
“WTO đã tạo sức ép để Việt Nam chuyển dần từ phương thức quản lý Nhà nước can thiệp hành chính sang phương thức quản lý Nhà nước kiến tạo, tôn trọng quyền tự do kinh doanh”, ông Lộc nói.
Kết quả là năm 2007 đã mở màn cho sự bừng nở mới của khu vực DN tư nhân Việt Nam, với kỷ lục gần 60.000 DN thành lập mới trong năm. Và sau 10 năm, thì trong năm 2016 vừa qua, phát triển DN đã thiết lập một kỷ lục còn ấn tượng hơn, với hơn 100.000 DN thành lập mới. Phát triển DN đã tăng ngoạn mục so với nhiều năm qua cả về số lượng, quy mô DN, vốn đầu tư…
Môi trường đầu tư đã thuận lợi cho cả DN trong nước và nước ngoài. TS. Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài nhớ lại, sau khi bước qua ngưỡng cửa hội nhập WTO vào năm 2007, dòng vốn FDI đã bắt đầu thời kỳ tăng trưởng cao. Số vốn thu hút ngay lập tức tăng vọt từ mức 15 tỷ USD của năm 2006 lên hơn 21 tỷ USD, tăng 77,8% so với năm trước. Và ngay sau đó, năm 2008, vốn FDI đạt 71 tỷ USD, thiết lập kỷ lục chưa từng bị phá vỡ.
Cần bước ngoặt để bộc lộ lợi thế
Nói khái quát lại, WTO đã làm bộc lộ rõ những nét cơ bản, đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam, định hình được cách làm chính sách và thực thi chính sách của Việt Nam. Tuy nhiên, xét trong 2 góc độ tích cực và tiêu cực của nền kinh tế, thì theo đánh giá của các chuyên gia, khía cạnh yếu kém có vẻ đang bộc lộ rõ và nhiều hơn cả. “Đó là bài học dù có thể đau nhưng rất nghiêm túc cho Việt Nam”, chuyên gia kinh tế, TS. Võ Trí Thành nhận xét.
Theo ông Thành, sự hứng khởi quá đà sau khi gia nhập WTO đã khiến việc hoạch định chính sách có thời điểm tập trung dồn vào tăng trưởng, bất chấp hiệu quả. Bởi suốt một thời kỳ, tăng trưởng chủ yếu là sự bành trướng đầu tư và mức đầu tư rất cao. Điều này đã khiến chúng ta xao nhãng, thiếu sự chuẩn bị và đối phó tốt hơn với biến động của kinh tế vĩ mô.
Kết quả là cho đến năm 2011, sau 5 năm gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam rất bất ổn, các cân đối lớn như ngân sách, thương mại, cán cân thanh toán quốc tế, tiết kiệm và đầu tư… méo mó, nền kinh tế rất dễ bị tổn thương trước các cú sốc bên trong hay bên ngoài nước. Hậu quả là 5 năm vừa rồi chúng ta phải chữa cháy, tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, trả giá cho sự hứng khởi quá đà trong thời kỳ đầu hội nhập.
Vấn đề thứ 2 là thu hút đầu tư. Bên cạnh đầu tư Nhà nước bành trướng, hiệu quả chưa cao thì thu hút FDI ở nhiều nơi cũng chạy theo thành tích để thu hút FDI bằng mọi giá mà xao nhãng, thậm chí quên đi vấn đề phát triển bền vững và tác động lan toả của FDI đối với nền kinh tế, đối với DN trong nước.
Vấn đề thứ 3, theo ông Thành, hội nhập và tự do hoá đã giúp Việt Nam tận dụng tốt hơn lợi thế so sánh vốn có của mình để đẩy xuất khẩu tăng mạnh. Đó là tập trung phát triển các ngành nghề có lợi thế về nhân công, kỹ năng chưa cao, giá tương đối rẻ, hay một số lĩnh vực do điều kiện tự nhiên tạo ra lợi thế, như nông nghiệp. Tuy nhiên, việc chuyển từ lợi thế tĩnh sang lợi thế tạo giá trị gia tăng cao hơn, năng lực sản xuất tốt hơn, dựa nhiều hơn vào năng suất thì còn hạn chế.
Những yếu kém của nền kinh tế đang lộ diện nhiều hơn, song theo các chuyên gia, các lợi thế của nền kinh tế cũng chưa được thể hiện hết. Vì vậy, Việt Nam cần có bước ngoặt trong bối cảnh hội nhập sâu sắc hơn song lại rất bất định và rủi ro, trong khi thế giới thay đổi mạnh hơn cả về cách thức kinh doanh, công nghệ, đòi hỏi của thị trường và người tiêu dùng.