Sức khỏe tài chính doanh nghiệp trong bối cảnh COVID-19
Cuộc khảo sát thực hiện từ ngày 12-22/8 nàycho thấy trong số 21.517 doanh nghiệp được khảo sát thì có 14.890 doanh nghiệp (69%) cho biết đã tạm dừng sản xuất, kinh doanh do dịch; 16% vẫn cố gắng duy trì sản xuất, kinh doanh một phần; và còn lại đã giải thể.
Có hơn 21% doanh nghiệp buộc phải đóng cửa do không đáp ứng các yêu cầu phòng dịch. Gần 50% số doanh nghiệp không ước tính được phải tạm đóng trong thời gian bao lâu.
“Điều này cho thấy họ khá bị động, không thể dự tính được các kế hoạch sử dụng lao động, đặt hàng nguyên vật liệu sản xuất...”, Ban IV nhận định.
Cơ cấu tình trạng hoạt động của doanh nghiệp phân theo từng tỉnh/thành phố tại 5 thành phố lớn (%) |
28,5% cho biết đóng cửa từ 1-3 tháng; khoảng 2,5% cho biết phải đóng cửa đến nửa năm; còn lại là những doanh nghiệp sẽ phải "ngủ đông" 3-6 tháng.
Cuộc khảo sát cho biết tình trạng chung của các doanh nghiệp là đang cạn tiền. Trong đó, 40% các hộ và doanh nghiệp dừng kinh doanh vì COVID-19 cho hay chỉ đủ tiền duy trì hoạt động dưới 1 tháng. Tỷ lệ này cao gấp 2,5 lần so với doanh nghiệp đang cố duy trì hoạt động.
Hộ kinh doanh là đối tượng dễ bị tổn thương nhất, với 45% cho biết có dòng tiền duy trì dưới 1 tháng. Tỷ lệ này ở công ty TNHH, cổ phần là 39,5%; doanh nghiệp Nhà nước 30%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 23,5%. Điều này cho thấy các doanh nghiệp phải đóng cửa dài hơn 1 tháng mà không có hỗ trợ từ bên ngoài thì khả năng giải thể là rất cao.
Doanh nghiệp còn "đủ lực" để "sống" trong 1-3 tháng chỉ còn khoảng 46%. Tỷ lệ doanh nghiệp đang duy trì sản xuất có dòng tiền hoạt động hơn 6 tháng là 17%.
Doanh nghiệp cho biết nguồn lực đang cạn kiệt nhưng doanh nghiệp đang phải gánh áp lực lớn vì các khoản chi lương, trả tiền thuê kho bãi, nhà xưởng, văn phòng, tiền bảo hiểm xã hội, y tế, bảo hiểm thất nghiệp, kinh phí công đoàn, thanh toán tiền điện, nước, nhiên liệu...
Bình quân doanh nghiệp duy trì "3 tại chỗ" phải trả thêm khoảng 9,3 triệu đồng một tháng cho mỗi nhân viên, tức là chi phí cho lao động tăng gấp đôi.
Khó khăn buộc các doanh nghiệp phải cắt giảm lao động, với 52% doanh nghiệp dừng hoạt động do dịch và chỉ 31% doanh nghiệp đang duy trì sản xuất chọn cách này.
Chỉ khoảng 4% nhóm doanh nghiệp duy trì sản xuất cho biết họ không cắt giảm lao động và tranh thủ tuyển thêm người. Đây cũng là điểm sáng nhưng hiếm hoi trong bức tranh tổng thể.
Cơ cấu doanh nghiệp theo tình trạng hoạt động và phân theo từng ngành kinh tế lớn (%) |
Ban IV cho rằng, tháng 9 là thời điểm có tính chất quyết định để cứu nguy cho số doanh nghiệp này thông qua hỗ trợ từ chính quyền hoặc tự lực của doanh nghiệp.
Khi được hỏi doanh nghiệp cần chính sách nào lúc này, 62% số doanh nghiệp cho biết hính sách quan trọng giúp doanh nghiệp bớt khó khăn là hỗ trợ vay lãi suất 1-3% một năm để trả lương.
Dù dừng hoạt động nhưng doanh nghiệp vẫn phải trả lương cho người lao động để giữ chân họ, chờ cơ hội phục hồi. Nhu cầu tuyển lao động mới sau dịch lớn hơn, nhất là với nhóm nhân sự quản lý, kỹ thuật cao.
Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp là giải phải mà 65% doanh nghiệp duy trì hoạt động và 60% phải tạm đóng vì COVID-19 đã chọn lựa.
Giảm tiền điện, nước, nhiên liệu là chính sách hỗ trợ từ Nhà nước được hơn 50% doanh nghiệp chọn. Khoảng 48% doanh nghiệp duy trì sản xuất và 46% đang tạm đóng cửa vì COVID-19 chọn giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) là nhóm chính sách hỗ trợ cần thiết từ Nhà nước với họ lúc này.
Để duy trì đảm bảo an toàn sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp đề xuất Chính phủ có giải pháp đảm bảo chuỗi cung ứng vận hành thông suốt. Bởi nếu bị mất thị trường, mất khách hàng thì doanh nghiệp khó phục hồi sau dịch.
Doanh nghiệp cũng muốn Chính phủ nghiên cứu xây dựng thêm các mô hình sản xuất kinh doanh an toàn (như mô hình vùng xanh kinh tế) để họ chủ động lựa chọn, áp dụng trong bối cảnh việc duy trì mô hình 3 tại chỗ kéo dài hiện quá tốn kém.
Doanh nghiệp đề nghị Chính phủ cho phép những người đã tiêm 2 mũi vắc-xin được trở lại làm việc, đồng thời chuẩn bị, xác định phương án sống chung với dịch bệnh sau tiêm vắc-xin đạt miễn dịch cộng đồng 70%.
Nhiều ý kiến đề xuất tăng tốc độ tiêm chủng vắc-xin bằng cách có cơ chế cho khu vực tư nhân tham gia vào dịch vụ tiêm. Khi Nhà nước lo vắc-xin miễn phí cho người yếu thế, người có hoàn cảnh khó khăn, thì tư nhân sẽ san sẻ, góp phần với Nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ tiêm vắc-xin cho những lao động trong các doanh nghiệp. Việc này giúp phần nào san sẻ gánh nặng với các cơ sở y tế công cộng, nhanh chóng tạo miễn dịch cộng đồng, đồng thời giúp doanh nghiệp có cơ hội tái mở cửa và hoạt động lại bình thường.
Đồng thời, doanh nghiệp kiến nghị tích hợp phần mềm khai báo y tế, di biến động dân cư, tận dụng IT để giảm bớt thủ tục giấy. Trên cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Chính phủ và Bộ Công an nghiên cứu cơ chế tích hợp dữ liệu liên quan tới tiêm chủng, xét nghiệm, khai báo, tầm soát y tế... và cho phép các địa phương, doanh nghiệp được kết nối, sử dụng nhằm quản lý và phân loại người lao động theo các thang đánh giá mức độ an toàn trong dịch bệnh.