Thân thương lũy tre làng
Ảnh minh họa |
Lũy tre làng từ bao đời nay luôn là hình ảnh đặc trưng nhất, gần gũi và thân quen nhất với hết thảy mọi miền quê, nhất là khu vực đồng bằng Bắc bộ, Trung du và miền núi phía Bắc. Chính vì lẽ đó mà giờ đây, khi đà đô thị hoá cùng những cơn sốt đất đã lấy mất đi hết hình ảnh của các lũy tre cũng ít nhiều mang tới sự thiếu vắng, hụt hẫng… khiến cho không chỉ riêng tôi, mà ai cũng cảm thấy hoài niệm là một điều dễ hiểu.
Nhà tôi nằm ở bìa làng vì vậy mà cha tôi luôn trồng những bụi tre để lấy vật liệu đan lát rổ rá, làm kèo cột, giường chõng, cũng như phục vụ việc sửa chữa nhà cửa, làm chuồng trâu, làm bếp… vì ở quê, dưới những nếp mái tranh không thể thiếu các cột kèo bằng tre được.
Ngoài tác dụng chính trên ra thì các bụi tre trồng sát nhau, ken chặt còn có tác dụng làm hàng rào ngăn kẻ trộm lẻn vào địa giới nhà mình. Với những buổi trưa hè nắng gắt oi ả thì lũy tre càng trở nên “có giá” bởi bóng mát của chúng luôn làm cho con người ta dễ chịu khoan khoái khi ngồi nghỉ trưa, thậm chí mắc võng ngủ dưới hàng cây tre.
Tôi không nhớ chính xác nhà tôi trồng bao nhiêu khóm tre, nhưng xung quanh nhà toàn là tre, dễ phải tới hàng ngàn cây. Vì nhu cầu sử dụng tre không nhiều nên phần lớn số tre trưởng thành cha mẹ tôi đều bán cho thương lái để lấy tiền nuôi anh em chúng tôi ăn học.
Mùa thu hoạch tre có thể diễn ra quanh năm, hễ cứ khi nào có người cần mua là nhà tôi lại bán. Cứ mỗi năm, măng tre lại mọc lên từ đất tua tủa và chỉ độ một, vài năm sau, từ măng cây tre đã có thể thu hoạch được.
Chính vì nhà trồng nhiều tre nên món măng tre mẹ chế biến ngâm cùng dấm ớt luôn là món khoái khẩu thường nhật trong từng bữa cơm của gia đình tôi. Mùa hè, bỏ chút măng ớt ngâm dấm vào bát nước mắn dùng chấm rau muống luộc, hay thịt luộc thì ngon thật tuyệt vời.
Tre thân thương, nhiều tác dụng như vậy nên hầu như nhà nào trong làng cũng trồng tre, nhà ít đất thì vài ba bụi, nhà nhiều đất trồng tới cả mấy chục bụi, thậm chí cả trăm bụi. Ở những khoảng đất không thuộc nhà ai, mà là đất của tập thể, người ta cũng trồng tre.
Đó là khoảng đất ở cổng làng, ở bờ mương ven đồng, ở cả những lũy đất nơi đồng cao… năm nào cũng vậy, cứ tới mùa xuân, dịp tết trồng cây là bọn học sinh chúng tôi cũng như các cụ bô lão trong làng lại mang gốc tre có măng nhú mầm đi trồng ở những khu đất tập thể ấy. Nguồn thu từ tre ở những nơi này thường gom lại gây quỹ cho đoàn thể của làng, xã…
Tuổi thơ tôi cũng như những đứa trẻ sinh ra lớn lên ở làng có rất nhiều kỷ niệm với lũy tre thân thương. Chúng tôi chơi khăng cũng tìm bờ tre để chọn các nhánh tre thon gọn, thẳng để chặt mang về chơi với nhau. Rồi thì, sau những buổi tan trường lũ chúng tôi vẫn hay chơi trò chắt, chuyền và các thanh nhỏ vót nhẵn cũng được lấy từ cây tre mà ra.
Tre đã “hỗ trợ” vào rất nhiều trò chơi của bọn nhỏ chúng tôi, vì thế mà chẳng một đứa trẻ nào trong xóm tôi lại không biết làm các trò thủ công từ tre, như đan lát rổ rá, giần, sàng, nong, nia…
Miên man với hoài niệm của những lũy tre làng thân thương thuở thiếu thời, tôi lạc bước trên những con đường ngõ, xóm với toàn tường gạch bao quanh cùng những nếp nhà tầng san sát trần trụi, nắng nôi, tôi thầm gọi khe khẽ: ngày xưa ơi bao giờ trở lại...!